Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 6, 6 tháng năm 2019

Thứ bảy - 29/06/2019 11:23
Thành phố thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 6 tháng đầu năm 2019 trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khi tăng trưởng chậm lại nhanh hơn so với dự kiến, rủi ro và bất ổn gia tăng, nhất là xung đột thương mại, điều chỉnh chính sách giữa các nước lớn và những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế. Trong nước kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố có nhiều đổi mới trong phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành với nhiều cách làm hiệu quả, đưa Hải Phòng bước vào thời kỳ phát triển mới, có nhiều đột phá, tăng trưởng cao, an ninh chính trị ổn định.
Bên cạnh những thuận lợi, kinh tế thành phố Hải Phòng vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, dịch tả lợn Châu Phi bùng phát và diễn biến phức tạp, hạ tầng kinh tế - xã hội còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đột phá mạnh mẽ hơn nữa của thành phố. 
Từ những kết quả đạt được trong năm 2018, ngay từ những tháng đầu năm 2019, Ủy ban nhân dân thành phố đã tập trung cao công tác chỉ đạo, điều hành để phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2019. Kết quả 6 tháng đầu năm 2019 đạt được như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Về tăng trưởng kinh tế

 

Cơ cấu  GRDP (%)

Tốc độ tăng trưởng
so với cùng kỳ
(%)
(Theo giá SS 2010)

Đóng góp vào mức tăng trưởng 6T/2019 (điểm %)

TỔNG SỐ

100,00

16,30

 16,30

  - Nông, lâm, nghiệp và thủy sản

   4,80

  0,11

   0,01

 - Công nghiệp - Xây dựng

 46,28

24,81

 11,51

 - Thương mại - Dịch vụ

 42,66

  9,83

   4,14

 - Thuế sản phẩm trừ trợ cấp

  6,26

  9,64

            0,64


    
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) theo giá so sánh 2010, ước tính 6 tháng năm 2019 đạt 86.305 tỷ đồng, tăng 16,30% so cùng kỳ năm trước (6 tháng/2018 tăng 16,03%), vượt kế hoạch năm (kế hoạch năm 2019 tăng 15,5%), đây là mức tăng cao nhất từ trước đến nay, cũng là mức tăng trưởng cao so với cả nước và các tỉnh, thành phố lớn, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thành phố. Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 0,11% (kế hoạch tăng 1,98%), đóng góp 0,01 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 24,81% (kế hoạch tăng 22,11%), đóng góp 11,51 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực dịch vụ tăng 9,64% (kế hoạch tăng 10,9%), đóng góp 4,14 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
 
gprd 6t2019

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức tăng thấp (+0,11%) do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi trên địa bàn thành phố, làm giá trị tăng thêm của nhóm nông nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan giảm 2,68% so với cùng kỳ năm trước; ngành thủy sản có giá trị tăng thêm tăng cao nhất trong khu vực này, tăng 7,32% so với cùng kỳ là do khai thác biển và nuôi thủy sản vùng nước lợ tăng khá. 
Trong khu vực công nghiệp - xây dựng, ngành công nghiệp tăng 24,93% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 10,26 điểm phần trăm vào tốc độ tăng chung, trong đó chủ yếu là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 26,92%, đóng góp 10,21 điểm phần trăm; với đóng góp chủ lực của một số ngành: ngành sản xuất sản phẩm điện tử của các dự án thuộc tập đoàn LG; ngành sản xuất thiết bị điện của chi nhánh công ty trách nhiệm hữu hạn GE Hải Phòng... Ngành xây dựng tăng 23,88%, đóng góp 1,24 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Trong 6 tháng đầu năm 2019 nhiều dự án, công trình trọng điểm, có ý nghĩa chiến lược với tương lai phát triển của thành phố được được khởi công và tập trung thực hiện không những làm thay đổi diện mạo thành phố mà còn góp phần không nhỏ trong mức tăng trưởng chung toàn thành phố.
Khu vực dịch vụ tăng 9,83% so với cùng kỳ năm trước, là sự đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như: vận tải, kho bãi tăng 11,98%, đóng góp 1,85 điểm phần trăm; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy tăng 10,73%, đóng góp 0,94 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 12,26%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm...
Về cơ cấu kinh tế trên địa bàn: khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng 4,80%, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 46,28%; khu vực dịch vụ chiếm 42,66%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,26%. Sáu tháng đầu năm 2019, các ngành: công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng GRDP của toàn thành phố, chứng tỏ cơ cấu kinh tế của Hải Phòng đi đúng hướng và tái cơ cấu kinh tế đang mang lại hiệu quả rõ rệt. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu tích cực phù hợp với yêu cầu thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. 
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số phát triển sản xuất (PTSX) công nghiệp (IIP) trên địa bàn thành phố tháng 6 năm 2019 ước tăng 0,63% so với tháng trước và tăng 26,72% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng năm 2019 IIP tăng 23,51% so cùng kỳ với 4 ngành công nghiệp cấp I đều đạt tăng trưởng cao, trong đó, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng 25,78%, đóng góp 22,71 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,17%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,25%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 10,69%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
 
IIP 6t2019

Trong 51 nhóm ngành kinh tế cấp 4 có 33 ngành có chỉ số sản xuất tăng trong đó: Ngành sản xuất mô tơ, máy phát điện tiếp tục là ngành có mức tăng cao nhất, tăng  234,2%; tiếp theo là ngành sản xuất thiết bị truyền thông tăng 132,8%; ngành tái chế phế liệu đứng thứ 3 với mức tăng 108,57%;...
Có 18 ngành có chỉ số sản xuất giảm, trong đó: sản xuất đồ chơi giảm 75,14%; sản xuất thuốc lá giảm 30,83%; sản xuất bia giảm 28,09%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 28,16%;...                                                               

                     Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp - IIP (%)                                                                          

 

 

Ước tính

tháng 6/2019 so với tháng trước

Ước tính tháng 6/2019 so với cùng kỳ

6 tháng đầu năm 2019 so với cùng kỳ

Tổng số

100,63

126,72

123,51

Khai khoáng

97,24

102,16

110,69

Công nghiệp chế biến , chế tạo

100,70

126,52

125,78

Sản xuất và phân phối điện

100,13

132,80

103,17

Cung cấp nước và xử lý rác thải

98,97

109,91

115,25

Tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp ở một số ngành đóng góp lớn trong tăng trưởng công nghiệp thành phố tháng 6 và 6 tháng/2019:  
        Ngành sản xuất thiết bị điện 6 tháng/2019 tiếp tục đạt mức tăng cao nhất (+234,2%) với đóng góp chủ lực của chi nhánh công ty TNHH GE Hải Phòng với sản phẩm chính là máy phát điện tuabin gió và các linh kiện hệ thống điều khiển điện. Dự kiến tháng 6/2019 sản xuất và tiêu thụ giảm nhẹ do các đơn hàng lớn tập trung trong tháng 5.
Ba doanh nghiệp thuộc tập đoàn LG trong 6 tháng năm 2019 dự kiến tăng 51,9% so cùng kỳ, thu hút và tạo việc làm cho hơn 15,5 nghìn lao động, tăng 70% so cùng kỳ. Thời gian tới dự kiến 3 doanh nghiệp sẽ tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng trưởng công nghiệp thành phố khi công ty TNHH LG Innotek tăng công suất nhà xưởng 2; công ty TNHH LG Display đưa nhà máy 2 vào hoạt động chính thức; công ty TNHH LG Electronic phát triển sản xuất với các dòng sản phẩm điện thoại thông minh sau khi hoàn tất việc dịch chuyển nhà máy từ Hàn Quốc tới Hải Phòng. 
Công ty TNHH Vinsmart khối lượng điện thoại sản xuất tháng 6/2019 sụt giảm mạnh do trong 1-2 tháng tới doanh nghiệp sẽ chính thức dừng sản xuất và chuyển toàn bộ dây chuyền sản xuất tại Khu kinh tế Đình Vũ - Hải Phòng sang nhà máy đặt tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc - Thạch Thất - Hà Nội.
Sản xuất xi măng 6 tháng/2019  tiếp tục duy trì tốc độ tăng, tăng 6,17% so cùng kỳ (6 tháng/2017 giảm 1,17%; 6 tháng/2018 giảm 8,47%), đây là sự nỗ lực của các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Sản xuất sắt thép 6 tháng/2019 ước tăng 1,85% so với cùng kỳ, đây là sản lượng đạt thấp nhất so với cùng kỳ trong 2 năm trở lại đây (6 tháng/2017 tăng 29,97%, 6 tháng/2018 tăng 5,88%). Dự kiến những tháng tới ngành sản xuất thép tiếp tục gặp khó khăn khi chịu ảnh hưởng của việc tăng chi phí sản xuất do tăng giá điện và giá nguyên liệu đầu vào. Tuy nhiên, thời gian gần đây thị trường bất động sản ở Hải Phòng đang phát triển mạnh, nhiều dự án hạ tầng, xây dựng, bất động sản được triển khai trong năm 2019, nhu cầu sắt thép tăng cao cũng là điều kiện để một số doanh nghiệp sản xuất thép có thêm những đơn hàng mới, giúp sản xuất tăng trưởng.
Ngành sản xuất và phân phối điện 6 tháng/2019 đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu điện cho sản xuất kinh doanh, phục vụ tốt các hoạt động chính trị xã hội và sinh hoạt của nhân dân, duy trì tăng trưởng ở mức 3,17% so với cùng kỳ.
Ngành đóng tàu 6 tháng/2019 tăng 23,22% so với cùng kỳ, bên cạnh một số doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh tốt, một số doanh nghiệp sản xuất tiếp tục sụt giảm do chưa ký kết được các hợp đồng mới. 
Một số ngành công nghiệp sản xuất giảm, tốc độ tăng thấp so cùng kỳ, cụ thể:
Ngành may trang phục 6 tháng/2019 đạt tốc độ tăng 14,57% so cùng kỳ, tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng dương nhưng đóng góp trong tăng trưởng chung giảm đi nhiều, trong đó công ty TNHH may Reginal sản xuất không còn mang tính đột biến. Thời gian tới dự kiến sản xuất của doanh nghiệp sẽ tăng khi nhà máy D và E đi vào hoạt động, ngoài đóng góp cho tăng trưởng của ngành còn góp phần tạo việc làm, an sinh xã hội.
Những tháng đầu năm 2019 xuất khẩu phân bón sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị, sản xuất 6 tháng/2019 giảm 23,37% so với cùng kỳ do sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp Trung Quốc. Bên cạnh đó, tình hình tiêu thụ nội địa cũng khá chậm. Các doanh nghiệp sản xuất phân bón đang nỗ lực áp dụng các giải pháp tích cực nhất để duy trì sản xuất ở mức hợp lý, tránh tồn kho cao, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Đồng thời tăng cường phối hợp với các đối tác xuất khẩu truyền thống để đẩy mạnh tìm kiếm thêm đơn hàng, gia tăng sản lượng xuất khẩu; linh hoạt điều chỉnh chính sách hỗ trợ tiêu thụ, điều chỉnh giá bán phù hợp theo giá thị trường trên cơ sở đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất.
Sản xuất thuốc lá 6 tháng/2019 giảm 30,83% so với cùng kỳ năm trước do từ tháng 01/2019, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá nội địa tăng từ 70% lên 75% khiến giá bán thuốc lá tăng, sức mua giảm, sản lượng tiêu thụ chỉ bằng 61,3% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra một số ngành khác cũng có chỉ số sản xuất giảm như sản xuất bê tông 6 tháng/2019 giảm 28,16% so với cùng kỳ do doanh nghiệp có khối lượng sản xuất lớn là công ty TNHH bê tông xây dựng Minh Đức chưa ký thêm hợp đồng mới nào sau khi cung cấp khối lượng lớn sản phẩm cọc bê tông cho VinFast; sản xuất bia giảm 28,09% do công ty CP bia Hà Nội - Hải Phòng giảm sản lượng bia chai, sản xuất đồ chơi giảm mạnh, giảm 75,14% do công ty TNHH Vĩnh Chân chuyển sản xuất lên Hải Dương...
* Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 6/2019 giảm 13,7% so với tháng trước và giảm 3,11% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 6 tháng năm 2019 chỉ số tiêu thụ tăng 3,2%, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao so cùng kỳ: sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản tăng 23,8%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 39,5%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 70,5%, sản xuất môtơ, máy phát tăng 200,4%...
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất thiết bị truyền thông giảm 33,7%; sản xuất bia giảm 28,5%; sản xuất phân bón giảm 42,6%; sản xuất săm lốp cao su giảm 4%...
* Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tại thời điểm 30/6/2019 tăng 12,7% so với tháng trước và tăng 16,35% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 80,67%; sản xuất phân bón tăng 162,58%; sản xuất thuốc lá tăng 54,1%; sản xuất bi, bánh răng, hộp số tăng 16,3%; sản xuất xi măng tăng 22,59%;...
Một số ngành có chỉ số tồn kho so với cùng kỳ giảm như: sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 6,94%; sản xuất trang phục giảm 10,56%; sản xuất săm lốp cao su giảm 37,54%...
* Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp ước tại thời điểm 30/6/2019 tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 10,2% so với cùng kỳ, trong đó: lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 7,1%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 15,5%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,7%. 
Chia theo ngành cấp I: ngành khai khoáng tăng 6,9%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,8%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,7%; ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý nước rác thải, nước thải tăng 0,3%. 
Một số ngành chỉ số sử dụng lao động tăng cao: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 81,5%; sản xuất trang phục tăng 18,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 18,1%, sản xuất thuốc hóa dược tăng 14,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 137,2%...
Một số ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm như: sản xuất đồ uống giảm 21,7%; sản xuất kim loại giảm 3,2%; sửa chữa máy móc giảm 7,6%.
* Một số sản phẩm công nghiệp ước 6 tháng năm 2019 so với cùng kỳ: quần áo các loại đạt 71,1 triệu cái, tăng 5,78%; phân khoáng hoặc phân hóa học đạt 107,49 nghìn tấn, giảm 23,4%; màn hình khác đạt 5.295 nghìn cái, tăng 26,75%; máy giặt đạt 773,7 nghìn cái, tăng 33,98%; lốp cao su đạt 1.357,74 nghìn cái, giảm 3,59%; sắt, thép các loại đạt 739 nghìn tấn, tăng 6,29%; xi măng Portland đen đạt 2.555 nghìn tấn, tăng 6,17%; điện sản xuất đạt 3.758,32 triệu Kwh, tăng 1,79%.
Trong quý II/2019 một số sản phẩm công nghiệp tăng cao so với quý I/2019: bia hơi đạt 11,8 triệu lít, tăng 300,58%; sổ sách, vở đạt 9,8 nghìn tấn, tăng 100,29%; màn hình khác đạt 2.766,9 nghìn cái, tăng 9,44%; điện sản xuất đạt 2.093 triệu Kwh, tăng 25,68%; bê tông trộn sẵn đạt 246,8 nghìn m3, tăng 34,57%;... Một số sản phẩm công nghiệp giảm so với quý I/2019: máy giặt loại khác đạt 327,8 nghìn cái, giảm 26,5%; đá vôi đạt 468 nghìn m3, giảm 24,4%; nước mắm đạt 1.642,7 nghìn lít, giảm 1%; phân hóa học đạt 51,22 nghìn tấn, giảm 8,97%.
3. Hoạt động của doanh nghiệp
3.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong tháng 6/2019, toàn thành phố có 272 doanh nghiệp (DN) thành lập mới với số vốn đăng ký là 1.833,8 tỷ đồng, tăng 1,12% về số DN và giảm 21,10% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình quân một DN đạt 6,74 tỷ đồng, giảm 21,97% so với cùng kỳ. Số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh thành lập mới trong tháng là 161 cơ sở.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2019, toàn thành phố có 1.545 DN đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 11.583,9 tỷ đồng, giảm 5,62% về số DN và tăng 26,47% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng ký bình quân một DN thành lập mới đạt 7,5 tỷ đồng, tăng 33,93%. Số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh thành lập mới trong 6 tháng đầu năm là 732 cơ sở, giảm 5,43% so với cùng kỳ năm trước.
Dự kiến trong tháng 6 năm 2019, thành phố có 13 DN và 88 chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh tiến hành thủ tục giải thể. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2019, số DN thực hiện thủ tục giải thể là 86 và đối với chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh là 230 cơ sở.
Về thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: Phòng Đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố trong tháng 6 năm 2019 đã thực hiện 150 lượt yêu cầu giải trình tình hình hoạt động đối với các DN, thu hồi 60 Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tính từ đầu năm, có 942 DN được yêu cầu giải trình tình hình hoạt động, 242 DN bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. 
3.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của 181 doanh nghiệp (DN) trên địa bàn thành phố thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy: Có 74,58% số DN đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2019 so với quý I/2019 tốt lên và giữ ổn định (38,67% DN đánh giá tốt lên và 35,91% DN đánh giá giữ ổn định), 25,41% cho rằng khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất khi có tới 81,16% DN đánh giá tốt lên và giữ ổn định (44,93% tốt lên, 36,23% giữ ổn định); tỷ lệ này ở khu vực DN nhà nước và DN ngoài nhà nước cho kết quả lần lượt là 71,43% (50% tốt lên; 21,43% giữ ổn định) và 70,41% (32,65% tốt lên và 37,76% giữ ổn định). 
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý II/2019, có 48,07% DN đánh giá khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 43,65% DN cho rằng không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 38,67% DN cho rằng nhu cầu thị trường trong nước thấp; 20,44% DN cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao và 19,34% DN cho rằng lãi suất vay vốn cao là yếu tố quan trọng.
Quý III/2019 dự báo tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khả quan, khởi sắc hơn so với quý II/2019, trong đó tỷ lệ số DN dự báo tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn tăng lên tới 52,49%; tỷ lệ DN dự báo ổn định là 32,6% và chỉ có 14,92% DN dự báo khó khăn hơn. Theo hình thức sở hữu, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ DN dự báo tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và giữ ổn định ở quý III/2019 cao nhất với 89,86% (trong đó dự báo tốt lên là 62,32% và dự báo ổn định là 27,54%) tỷ lệ này ở khu vực DN nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh lần lượt là 85,72% và 81,63%. Một số ngành dự báo khả quan về khối lượng sản xuất quý III/2019 tăng lên so với quý II/2019 như: sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa chất, may trang phục, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất xe có động cơ...
4. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
4.1. Nông nghiệp

 * Trồng trọt
   Cây hàng năm
        Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông xuân 2019 toàn thành phố đạt  47.515,9 ha, bằng 96,81%, giảm 1.567,4 ha so với vụ Đông xuân năm 2018. Diện tích gieo trồng hiện nay có xu hướng giảm ở hầu hết các nhóm cây, trong đó nhóm cây lương thực giảm nhiều nhất (diện tích đạt 33.265,6 ha, bằng 95,12%, giảm 1.707,8 ha). Kết quả của từng nhóm cây trồng chính như sau:
        Diện tích gieo trồng cây lúa vụ Đông xuân 2019 đạt 32.604 ha, bằng 95,15%, giảm 1.660,8 ha so với vụ Đông xuân năm trước. Diện tích lúa giảm do chuyển dịch sản xuất trồng cây rau màu khác, cây lâu năm ăn quả 84,4 ha; nuôi trồng thủy sản 154,1 ha; chuyển mục đích sử dụng sang đất dự án, cụm công nghiệp, xây dựng khu tái định cư là 202,6 ha; xây dựng các công tình thủy lợi, công trình giao thông 76,5 ha và phần lớn bị bỏ hoang do khó khăn trong tưới tiêu, do không có lao động là 1.143,2 ha. Ước tính năng suất lúa bình quân toàn thành phố đạt 69,65 tạ/ha, bằng 99,42%; sản lượng lúa ước đạt 227 nghìn tấn, bằng 94,6%, giảm 13 nghìn tấn so với vụ Đông xuân năm 2018.
Diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm khác vụ Đông xuân năm 2019 đạt 14.911,9 ha, bằng 100,63%, tăng 93,4 ha so với vụ Đông xuân năm trước (diện tích tăng ở nhóm cây rau và hoa các loại giảm ở cây ngô, thuốc lào...), trong đó:
Diện tích cây ngô đạt 661,6 ha, bằng 93,36%, diện tích trồng cây ngô giảm do hiệu quả từ trồng ngô đem lại không cao. Sản lượng cây ngô ước đạt 3.449,8 tấn, bằng 93,56%, năng suất cây ngô ước đạt 52,14 tạ/ha, bằng 100,21% so với cùng kỳ năm trước. 
        Diện tích cây thuốc lào đạt 1.999 ha, bằng 94,6% so với cùng kỳ năm trước, diện tích thuốc lào giảm ở các vùng trồng cho năng suất thấp, chất lượng thuốc không ngon, không được giá so với các vùng trồng chuyên canh có chất lượng thuốc tốt hơn. Năng suất cây thuốc lào ước đạt 17,15 tạ/ha, bằng 99,36%; sản lượng ước đạt 3.429,2 tấn, bằng 94% so với cùng kỳ năm trước.
       Diện tích nhóm rau các loại đạt 9.130,7 ha, bằng 100,3% so với vụ Đông xuân năm 2018, trong đó: nhóm rau lấy lá đạt 3.819 ha, bằng 108%; nhóm rau lấy quả đạt 1.441,7 ha, bằng 105,20%; dưa lấy quả đạt 502,3 ha, bằng 109,44%; nhóm rau họ đậu đạt 238,4 ha, bằng 122,27%... Sản xuất vụ Đông xuân năm nay thời tiết tương đối thuận lợi nên năng suất, sản lượng các nhóm cây trồng đều giữ được ổn định, năng suất nhóm rau lấy lá ước đạt 224,52 tạ/ha, sản lượng ước đạt 85.742,9 tấn; nhóm rau lấy quả đạt 272 tạ/ha, sản lượng đạt 39.214,3 tấn; dưa lấy quả đạt 285,39 tạ/ha, sản lượng đạt 14.335 tấn...
      Cây lâu năm
        Tổng diện tích trồng cây lâu năm trên địa bàn thành phố 6 tháng năm 2019 đạt 7.756,4 ha, bằng 100,74%, tăng 56,7 ha so với cùng kỳ năm trước. Diện tích trồng cây tăng do được chuyển đổi từ một số diện tích cây hàng năm nhằm tăng hiệu quả sản xuất, cùng với đó là việc mở rộng quy mô cây trồng tại những vùng trồng tập trung chuyên canh và cây trồng phân tán trên đất vườn của các hộ dân. 
    Diện tích các nhóm cây trồng giữ được sự ổn định so với những năm trước: nhóm cây ăn quả đạt 6.411,4 ha, chiếm 82% tổng diện tích; cây lấy quả chứa dầu 240,3 ha, chiếm 3% tổng diện tích; nhóm cây gia vị, dược liệu 123 ha, chiếm 2% tổng diện tích; diện tích cây lâu năm khác đạt 600,4 ha, chiếm 12% tổng diện tích. 
    Một số cây trồng có tiềm năng về giá trị trên thị trường được quy hoạch thành vùng trồng tập trung, phát triển mở rộng như: diện tích Thanh long ruột đỏ và ruột trắng đạt 135,3 ha, bằng 113,25%, tăng 15,8 ha so cùng kỳ năm trước; cây na diện tích hiện có 356,7 ha, bằng 110%, tăng 32,9 ha so với cùng kỳ năm trước, diện tích na giữ được ổn định và có xu hướng tăng do mức cầu của thị trường hiện nay đang cao (Thủy Nguyên là địa phương có diện tích na lớn nhất thành phố chiếm tới 75,54% tổng diện tích toàn thành). Các Hợp tác xã nông nghiệp đã xây dựng được thương hiệu xuất xứ của cây na đạt tiêu chuẩn chất lượng cao với qui trình công nghệ truy xuất nguồn gốc và hiện nay sản phẩm được xuất bán tới các tỉnh thành miền Bắc.
    Trong thời gian tới theo xu hướng sản xuất hàng hóa cho cây trồng nông nghiệp, trên địa bàn thành phố sẽ có nhiều mô hình sản xuất cây ăn quả chất lượng cao đặc trưng của từng địa phương đơn vị phục vụ nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Đây cũng là lời giải cho bài toán nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, tận dụng được những diện tích đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả thấp.
* Chăn nuôi
Dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn thành phố tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tổng đàn lợn tiếp tục có xu hướng giảm nhanh, giảm mạnh; ước tính tháng 6/2019 đàn lợn đạt 145,1 nghìn con, giảm 64,9% so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi trâu, bò ổn định không xuất hiện dịch bệnh xảy ra trên đàn trâu, bò; do nhu cầu sức kéo hiện nay trong sản xuất nông nghiệp không còn, chăn nuôi trâu, bò chủ yếu phục vụ nhu cầu thực phẩm nên có xu hướng giảm và ngày càng thu hẹp. Ước tháng 6/2019, đàn trâu đạt 4.930 con, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm trước, đàn bò đạt 12.355 con, giảm 6,755 so với cùng kỳ năm trước
Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định và có xu hướng tăng mạnh. Tổng đàn gia cầm tháng 6/2019 ước đạt 8.101 nghìn con, tăng 11,24% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đàn gà đạt 6.228 nghìn con, tăng 7,61% so với cùng kỳ năm trước. Đàn gia cầm tăng mạnh do nhu cầu tiêu dùng hiện nay đang tăng cao nhằm thay thế cho thịt lợn. Bên cạnh đó giai đoạn vào hè kết thúc vụ gặt đông xuân nên sản phẩm thủy cầm như: vịt chạy đồng, ngan… cũng được thị trường tiêu thụ rất mạnh.
    Giá lợn thịt hơi xuất chuồng hiện nay khoảng 37.600 đồng/kg; lợn giống 56.565 đồng/kg; giá sản phẩm các loại chăn nuôi gia cầm vẫn duy trì ở mức ổn định.
Tình hình chăn nuôi 6 tháng năm 2019: chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2019 gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi. Ngày 22/02/2019 dịch được phát hiện tại thôn 12, xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên và diễn biến dịch hiện nay vẫn còn rất phức tạp. Trong hơn 4 tháng qua dịch đã xuất hiện ở 13 huyện, quận trên địa bàn thành phố: Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Dương, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, An Lão, Cát Hải, Dương Kinh, Hải An, Kiến An, Đồ Sơn, Hồng Bàng và Lê Chân. Số lợn tiêu hủy tính đến 17h ngày 23/6/2019 là 175.837 con (30.959 con lợn nái, 398 con lợn đực giống, 92.350 con lợn thịt, 52.130 con lợn con); trọng lượng 9,39 nghìn tấn. Dịch cũng đã xâm nhập vào 11 trang trại chăn nuôi có quy mô > 300 con; 373 hộ chăn nuôi có quy mô từ 50 - 300 con; 18.299 hộ chăn nuôi có quy mô < 50 con. Giá trị thiệt hại theo giá người sản xuất ước tính lên tới 359,8 tỷ đồng. Giai đoạn hiện nay việc tái đàn tại vùng có dịch, vùng bị uy hiếp, vùng đệm được kiểm soát chặt chẽ theo qui định Luật thú y nên dự báo số lượng tổng đàn sẽ tiếp tục xu hướng giảm mạnh trong thời gian tới.   
* Sản lượng sản xuất ngành chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2019: sản lượng lợn hơi ước đạt 16,63 nghìn tấn giảm 49,34% so với cùng kỳ. Sản lượng gia cầm ước đạt 28,06 nghìn tấn, tăng 19,81%, trong đó sản lượng gà ước đạt 22,03 nghìn tấn. Sản lượng xuất chuồng gia cầm tăng mạnh đặc biệt là gà, theo số liệu điều tra về quy mô tổng đàn, khu vực nhóm hộ nuôi qui mô lớn (>1000 con) đạt mức tăng trưởng tới 34,26% so cùng kỳ. Đây cũng là điểm sáng trong nỗ lực chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, chính quyền thành phố trong bối cảnh dịch tả lợn Châu Phi gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi trên địa bàn Hải Phòng. 
1.2 Lâm nghiệp
         Ước tháng 6 năm 2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 152 ste, bằng 75,8% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng củi khai thác đạt 3.570 m3, bằng 90,4% so với cùng kỳ năm trước. Ước 6 tháng/2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 984,5 m3, bằng 81,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 23.022 ste, bằng 95,3% so với cùng kỳ năm trước, số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 131 nghìn cây, bằng 97% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất ngành lâm nghiệp thành phố với đặc thù là rừng đặc dụng chiếm đa số nên sản lượng sản phẩm khai thác không đa dạng và có xu hướng liên tục giảm do chủ yếu được khai thác, thu nhặt từ diện tích cây trồng phân tán.
Trong tháng 6/2019 toàn thành phố xảy ra 03 vụ cháy rừng tại huyện Thủy Nguyên, diện tích rừng bị cháy là 1,5 ha. Cộng dồn 6 tháng/2019 trên địa bàn thành phố xảy ra 04 vụ cháy rừng, bằng 133,3% so với cùng kỳ năm trước, với tổng diện tích rừng bị cháy là 2,18 ha, bằng 38,6% so với cùng kỳ năm trước, đối tượng thiệt hại chủ yếu là thảm thực bì, keo, bạch đàn, thông... nên mức độ thiệt hại không đáng kể; xảy ra 02 vụ chặt phá rừng trái phép tại huyện Cát Hải.
1.3 Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 6/2019 ước đạt 13.842 tấn, tăng 0,15% so với cùng kỳ năm trước; tổng sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản 6 tháng/2019 ước đạt 84.999,8 tấn, tăng 3,16% so với cùng kỳ năm trước.
* Nuôi trồng 
Diện tích nuôi trồng thủy sản 6 tháng/2019 ước đạt 11.451 ha, tăng 0,05% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 7.323,8 ha, giảm 0,84%; tôm các loại đạt 2.719,8 ha, giảm 1,03%; thủy sản khác đạt 1.407,4 ha, tăng 7,36%. Diện tích nuôi trồng thủy sản của thành phố hiện nay có xu hướng giảm ở khu vực đảo Cát Hải, Cát Bà, diện tích nuôi trồng bị thu hẹp (6 tháng đầu năm giảm >230 ha) do thu hồi mặt bằng cho các Dự án Tổ hợp sản xuất ô tô VinFast; dự án đầu tư xây dựng khu tái định cư đảo Cát Hải do Công ty TNHH sản xuất và kinh doanh VinFast làm chủ đầu tư; dự án xây dựng khu cảng hàng hóa, bến tàu du lịch, ga cáp treo, nhà máy sản xuất các sản phẩm du lịch, khu dịch vụ hậu cần du lịch do Công ty cổ phần Tập đoàn Mặt Trời làm chủ đầu tư...  
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 6 năm 2019 ước đạt 5.240,7 tấn, tăng 2,24% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 3.351,9 tấn, tăng 6,75%; tôm các loại đạt 699,2 tấn, giảm 2,1%; thủy sản khác đạt 1.189,6 tấn, giảm 6,45%. Ước tính 6 tháng/2019 sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 36.156,7 tấn, tăng 2,97%, chia ra: cá các loại đạt 22.689,7 tấn, tăng 2,44%; tôm các loại đạt 3.597.7 tấn, tăng 0,38%; thủy sản khác đạt 9.869,3 tấn, tăng 5,2%. 
Một số sản phẩm có thế mạnh của Hải Phòng tại khu vực nuôi nước lợ có giá trị cao đạt mức tăng trưởng khá như: cá vược, cá rô phi nước lợ tăng 10%; tôm he chân trắng tăng 3,8%; cua biển tăng 3,5%; ngao biển tăng 5,5%... về cả sản lượng và giá trị. Ngành sản suất giống thủy sản tăng khá với sản lượng sản xuất đạt 1.181,1 triệu con giống các loại, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.
Khu vực nuôi nước ngọt tiếp tục thu hoạch sản phẩm đạt kích cỡ thương phẩm, tập trung chăm sóc đàn thủy sản trong điều kiện thời tiết nắng nóng, diễn biến phức tạp. 
Khu vực nuôi nước lợ, phần lớn diện tích vẫn nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến kết hợp tôm sú, cua bể, cá rô phi với rong câu, hiện đang tiến hành thu tỉa sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng và thả gối vụ tôm sú, tôm rảo, cua… khi thời tiết thuận lợi. 
Khu vực nuôi bãi triều (nhuyễn thể), nuôi lồng bè, giàn bè chủ động tu sửa cơ sở vật chất, sẵn sàng cho mùa mưa bão 2019, tích cực thu hoạch sản phẩm (cá song, cá giò, cá vược, cá hồng, hàu, ngao Bến Tre, ngao vàng...) phục vụ nhu cầu tiêu dùng của địa phương và khách du lịch.
Trước tình hình diễn biến phức tạp của thời tiết, xuất hiện các đợt nắng nóng gay gắt, kéo dài có nguy cơ gây bùng phát dịch bệnh trên đàn thủy sản nuôi, các sở ban ngành đôn đốc, khuyến cáo người nuôi, chủ động áp dụng các biện pháp ổn định môi trường, tránh nóng ao nuôi, bổ sung khoáng chất vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho vật nuôi, phòng ngừa dịch bệnh.
* Khai thác 
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 6 năm 2019 ước đạt 8.601,3 tấn, giảm 1,08% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 4.815,6 tấn, tăng 1,61%; tôm các loại đạt 724,9 tấn, giảm 0,21%; thủy sản khác đạt 3.060,8 tấn, giảm 5,23%. 
Ước 6 tháng/2019 sản lượng thủy sản khai thác đạt 48.843,1 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 29.345,3 tấn, tăng 14,03%; tôm các loại đạt 3.899,9 tấn, giảm 1,69%; thủy sản khác đạt 15.597,9 tấn, giảm 11,28%. Một số sản phẩm có tính thương mại cao như cá nục đạt 6,8 nghìn tấn, tăng 5,5%; cá hồng đạt 6,8 ngàn tấn, tăng 17,7%; mực các loại đạt 3,9 ngàn tấn tăng 20,3%;.… cả về sản lượng và giá trị. 
Thị trường tiêu thụ hải sản hiện nay được đảm bảo, giá mặt hàng hải sản tương đối cao; giá nhiên liệu cho hoạt động khai thác giữ ở mức tương đối ổn định đã tạo động lực cho ngư dân hăng say bám biển. Thời điểm đang trong thời kỳ khai thác chính của vụ cá Nam, thời tiết tương đối thuận lợi cho nghề khai thác thủy sản, trên các ngư trường Long Châu - Cát Bà, Bạch Long Vỹ. Các mô hình khai thác kiêm nghề, tăng thời gian bám biển tiếp tục được ngư dân phát huy và nhân rộng đã góp phần nâng cao sản lượng cũng như hiệu quả khai thác.
Thời gian tới tình hình thời tiết trên biển sẽ trong thời kỳ mưa bão nên diễn biến phức tạp, bên cạnh đó Bộ Nông nghiệp Trung Quốc bắt đầu đơn phương thực thi lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông trong ba tháng rưỡi (bắt đầu từ 12h ngày 1/5 đến 12h ngày 16/8, trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến vùng biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông (bao gồm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam) ảnh hưởng tới hoạt động khai thác thủy sản trên biển.
4. Đầu tư xây dựng
Quý II năm 2019, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn là 39.950,9 tỷ đồng, tăng 78,41% so với cùng kỳ. Chia ra:
- Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 2.841,5 tỷ đồng, giảm 3,59% so với cùng kỳ, trong đó: Vốn Trung ương quản lý là 656,8 tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ; vốn địa phương quản lý là 2.184,7 tỷ đồng, tăng 1,8% so với cùng kỳ;
- Vốn ngoài nhà nước thực hiện là 25.401,8 tỷ đồng, tăng 144,99% so với cùng kỳ;
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 11.707,5 tỷ đồng, tăng 28,98% so với cùng kỳ;
Dự tính 6 tháng năm 2019, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn là 70.637,5 tỷ đồng, tăng 76,82% so với cùng kỳ, bằng 65,25% kế hoạch năm 2019 (kế hoạch năm đạt 108.250 tỷ đồng, tăng 12,25%). Chia ra:
- Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 4.768,9 tỷ đồng, giảm 2,6% so với cùng kỳ, trong đó: Vốn Trung ương quản lý là 1.229,9 tỷ đồng, giảm 13% so với cùng kỳ; vốn địa phương quản lý là 3.539 tỷ đồng, tăng 1,8% so với cùng kỳ;
- Vốn ngoài nhà nước thực hiện là 45.043,3 tỷ đồng, tăng 114,07% so với cùng kỳ;
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 20.825,2 tỷ đồng, tăng 48,64% so với cùng kỳ.
Dự kiến 6 tháng đầu năm 2019 vốn đầu tư thực hiện khu vực nhà nước giảm 2,6% so với cùng kỳ, trong đó nguồn vốn trung ương quản lý giảm 13% so với cùng kỳ do dự án Cảng Lạch Huyện trong giai đoạn chuẩn bị hoàn thành cuối năm 2019, các dự án khác của trung ương không đáng kể. Bên cạnh đó nguồn vốn nhà nước địa phương tăng thấp, tăng 1,8% so với cùng kỳ làm tốc độ phát triển của nguồn vốn thực hiện khu vực nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng thấp so với các năm trước. Tuy nhiên, đây là tín hiệu đáng mừng về sự dịch chuyển cơ cấu nguồn vốn và là xu hướng tất yếu.
Khu vực ngoài nhà nước ước 6 tháng/2019 chiếm tỷ trọng cao nhất và có mức tăng vượt bậc so với cùng kỳ, tăng 114,07%. Có thể nhận thấy rõ sự phát triển vượt bậc, tập trung vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vào các dự án lớn nhất từ trước tới nay tại Hải Phòng. Đó là Tập đoàn Vingroup với tổng vốn đầu tư gần trăm nghìn tỷ đồng. Tập đoàn Sungroup đang khẩn trương đầu tư vào khu vực Cát Hải, Cát Bà với tổng vốn đầu tư 3 tỷ USD. Một loạt các doanh nghiệp, tập đoàn lớn khác cũng không ngần ngại rót hàng nghìn tỷ đồng vốn vào Hải Phòng như Tập đoàn BRG với dự án sân golf và khu biệt thự Đồ Sơn hơn 2.100 tỷ đồng; khách sạn 5 sao Hilton hơn 1.000 tỷ đồng; Công ty Nhật Hạ với khách sạn 5 sao Pullman 1.600 tỷ đồng… Những công trình này đang được đánh giá là sẽ làm thay đổi đáng kể diện mạo đô thị và phát triển kinh tế Hải Phòng.
Nguồn vốn FDI đầu tư vào Hải Phòng cũng không ngừng tăng nhanh những năm gần đây (chiếm 29,5% tổng mức đầu tư toàn xã hội). Tính riêng 3 dự án của Tập đoàn LG đã có tổng vốn đầu tư lên tới hơn 4 tỷ USD. Cùng với đó là một loạt các nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt tại Hải Phòng như Regina Miracle Internatinonal Việt Nam, Bridgestone, Nippro Pharma, Kyocera, Fuji Xerox, GE,… Trong 6 tháng đầu năm 2019 có dự án sản xuất vật liệu nam châm đất hiếm của công ty TNHH vật liệu nam châm Shin-Etsu Việt Nam đã bổ sung thêm vốn đầu tư 81 triệu USD.
Tình hình thực hiện một số dự án trọng điểm đến thời điểm hiện nay trên địa bàn:
- Dự án Đầu tư xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng được khởi công vào ngày 14/4/2013, đến nay gói thầu số 10 - đê chắn sóng đoạn B và đê chắn cát tiến độ thực hiện 90%, dự kiến tháng 11/2019 hoàn thành. 
- Dự án cầu Hoàng Văn Thụ đến thời điểm hiện tại thực hiện hơn 95% khối lượng công việc. Do vướng mắc trong vấn đề giải phóng mặt bằng nên đến nay dự án chưa hoàn thành được và phải xin lùi lại sang quý III/2019 mới xong hợp phần cầu. Đối với các gói thầu xây lắp công trình hạ tầng kỹ thuật khu đô thị Bắc sông Cấm, dự kiến năm 2020 sẽ hoàn thành. 
- Dự án xây dựng nút giao thông Nam cầu Bính với tổng mức đầu tư 1.483 tỷ đồng, đến thời điểm hiện tại hạng mục xây lắp của dự án thực hiện được khoảng 34%, khối lượng công việc đạt gần 500 tỷ đồng.
- Dự án Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô tô VinFast của tập đoàn Vingroup, đến ngày 06/3/2019 đã cho lăn bánh chiến xe ô tô VinFast đầu tiên, khẳng định đẳng cấp vượt trội. Quý I/2019 nhà máy đã nhập khẩu hơn 10.000 tỷ đồng máy móc thiết bị cho việc sản xuất ô tô.
- Dự án Khu đô thị Cầu Rào 2 đã khởi công trong quý IV/2018 được thực hiện với tiến độ khá nhanh trên tổng diện tích xây dựng là 49,76 ha, gồm 1.157 căn nhà liền kề, biệt thự, shophouse. Dự kiến hoàn thành sau 12 tháng thi công. 
- Dự án xây dựng tuyến cáp treo của công ty TNHH Mặt Trời Cát Bà thuộc tập đoàn Sungroup đang được tích cực thực hiện. Trong 6 tháng đầu năm 2019 khối lượng đầu tư thực hiện gần 300 tỷ đồng. 
- Dự án Trung tâm thương mại Aeon Mall Hải Phòng của Nhật Bản với tổng mức đầu tư gần 190 triệu USD tương đương 4.100 tỷ đồng đã được khởi công xây dựng. Dự án được triển khai còn chậm do vướng mắc về giải phóng mặt bằng. 
- Ngày 11/5/2019 dự án tổ hợp thương mại và căn hộ The Minato Residence tại khu đô thị ven sông Lạch Tray đã được khởi công với tổng mức đầu tư là 2.213,4 tỷ đồng với quy mô dự án 2 tháp với chiều cao 26 tầng. Cùng với dự án xây dựng tòa tháp đôi Chuo, khu đô thị ven sông Vinhomes Cầu Rào 2, trung tâm thương mại Aeon Mall,…sẽ khiến khu vực này trở thành nơi sầm uất về bất động sản, trung tâm thương mại văn minh hiện đại bậc nhất Hải Phòng.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/6/2019 Hải Phòng có 656 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư    :   17.360,56 triệu USD
Vốn điều lệ        :     6.001,68 triệu USD
Vốn Việt Nam góp    :        241,07 triệu USD
Nước ngoài góp    :     5.760,61 triệu USD
Từ đầu năm đến 15/6/2019, toàn thành phố có 43 dự án cấp mới đến từ 14 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn đăng ký đạt 356,32 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: cấp mới trong khu công nghiệp, khu kinh tế đạt 351,28 triệu USD, (chiếm 98,58%); cấp mới ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế đạt 5,03 triệu USD (chiếm 1,42%).
Điều chỉnh tăng vốn đầu tư có 21 dự án, với số vốn tăng là 133,99 triệu USD, các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Cấp mới và tăng vốn toàn thành phố có 64 dự án, vốn đầu tư đạt 490,31 triệu USD.
Tính từ nửa cuối tháng 5 đến 15/6/2019 có 11 dự án cấp mới, tuy nhiên tổng vốn đăng ký của hoạt động đầu tư đối với các dự án không lớn.
Cũng từ đầu năm đến 15/6/2019, có 5 dự án hết thời hạn, 4 dự án nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động dự án trước thời hạn (cả hai trong 4 dự án trên đều là dự án ngoài khu công nghiệp).
Ước thực hiện vốn đầu tư đạt 43,3%.
5. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 năm 2019 ước đạt 11.259,22 tỷ đồng, tăng 1,36% so với tháng trước và tăng 14,99% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 64.863,88 tỷ đồng, tăng 14,72% so với cùng kỳ năm trước.
* Chia theo khu vực kinh tế 
- Khu vực kinh tế nhà nước ước đạt 275,86 tỷ đồng, tăng 0,56% so với tháng trước, giảm 5,77% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng/2019 ước đạt 1.582,36 tỷ đồng, giảm 1,45% so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 10.463,14 tỷ đồng, tăng 1,44% so với tháng trước và tăng 15,73% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng/2019 ước đạt 60.246,34 tỷ đồng, tăng 15,30% so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 520,22 tỷ đồng, tăng 0,21% so với tháng trước, tăng 13,82% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng/2019 ước đạt 3.035,18 tỷ đồng, tăng 13,07% so với cùng kỳ năm trước.
* Chia theo ngành hoạt động
     Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ

 

 Ước tháng 6/2019 (Triệu đồng)

 Cộng dồn 6 tháng 2019 (Triệu đồng)

Ước tháng 6/2019 so với tháng trước (%)

Ước tháng 6/2019 so với tháng cùng kỳ năm trước (%)

Cộng dồn 6 tháng 2019 so với cùng kỳ năm trước (%)

Tổng số

11.259,22

64.863,88

101,36

114,99

114,72

Bán lẻ hàng hóa

8.361,37

50.062,56

100,13

115,25

114,70

Dịch vụ lưu trú

185,89

845,02

111,02

113,90

116,24

Dịch vụ ăn uống

1.721,31

8.543,15

104,74

118,50

115,87

Du lịch lữ hành

19,98

99,68

108,25

100,04

103,73

Dịch vụ khác

970,66

5.313,47

104,56

107,83

113,06


- Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 6 năm 2019 ước đạt gần 8.361,37 tỷ đồng, tăng 0,13% so với tháng trước, tăng 15,25% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 50.062,56 tỷ đồng, tăng 14,70% so với cùng kỳ năm trước do hàng hóa trên thị trường ngày càng đa dạng về mẫu mã, giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu mua sắm phục vụ cho tiêu dùng của người dân;
Tháng 6 năm 2019, hầu hết các ngành hàng đều ước tính doanh thu tăng hơn so với tháng trước như ngành hàng lương thực thực phẩm (tăng 0,08%); hàng may mặc (tăng 0,34%); ngành đồ dùng trang thiết bị gia đình (tăng 0,11%); gỗ và vật liệu xây dựng (tăng 1,02%); phương tiện đi lại (tăng 0,27%), xăng dầu các loại (tăng 0,15%)... Riêng ngành hàng nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) ước tính doanh thu trong tháng 6/2019 giảm 2,53% so với tháng trước đó chủ yếu do giá gas trong nước được điều chỉnh giảm 33.000 đồng/bình 12 kg vào đầu tháng 6 theo giá gas thế giới để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. 
Tháng 6 là là thời điểm học sinh được nghỉ hè, cũng là tháng hoạt động du lịch được đẩy mạnh kéo theo tiêu dùng của người dân có xu hướng tăng cao. Thời tiết nắng nóng nên nhu cầu về các sản phẩm thiết yếu như điều hoà và các sản phẩm làm mát khác như quạt phun sương, quạt tích điện,... đều tăng mạnh. Doanh thu của ngành vật liệu xây dựng ước tính tiếp tục tăng cao trong tháng 6/2019 do nhu cầu lớn về hạ tầng, nhà ở, đô thị cùng sự phát triển của thị trường bất động sản.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2019, một số ngành hàng có doanh thu tăng khá cao so với cùng kỳ là nhóm ngành hàng lương thực, thực phẩm (tăng 14,04%); hàng may mặc (tăng 13,29%); đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (tăng 14,52%); gỗ và vật liệu xây dựng (tăng 15,65%); xăng dầu các loại (tăng 15,89%); nhiên liệu khác (tăng 15,65%); ô tô các loại (tăng 13,77%)... 
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 6 năm 2019 ước đạt 186 tỷ đồng, tăng 11,02% so với tháng trước và tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 6 tháng/2019, doanh thu lưu trú ước đạt 845 tỷ đồng, tăng 16,24% so với cùng kỳ năm trước. 
- Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 6 năm 2019 ước đạt 1.721 tỷ đồng, tăng 4,74% so với tháng trước và tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 6 tháng/2019, doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 8.543 tỷ đồng, tăng 15,87% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 6 năm 2019 ước đạt 20 tỷ đồng, tăng 8,25% so với tháng trước, tăng 0,04% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 6 tháng/2019, doanh thu lữ hành ước đạt 99,7 tỷ đồng, tăng 3,73% so với cùng kỳ năm trước .
Tháng 6 là một trong những tháng cao điểm trong mùa du lịch, nhu cầu về các dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành tăng hơn nhiều so với tháng trước. Quý II/2019 cũng là quý có hoạt động sôi động về du lịch biển. Trong 6 tháng đầu năm, thành phố tổ chức nhiều lễ hội như: Lễ hội đảo Dấu, Lễ hội Nữ tướng Lê Chân, Lễ hội truyền thống huyện đảo Cát Hải, Liên hoan du lịch “Đồ Sơn - Miền di sản”… Hải Phòng có thế mạnh về du lịch biển do sở hữu hai bãi biển đẹp là Đồ Sơn và Cát Bà, hơn nữa các công trình giao thông được nâng cấp, việc đi lại thuận lợi thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến với thành phố. Năm 2019, thành phố còn thu hút được du khách đến với các hoạt động du lịch tâm linh, một số địa điểm tâm linh được du khách quan tâm và hài lòng như chùa Hang, tháp Tường Long, đền Tràng Kênh, nhà tưởng niệm Nhà lãnh tụ Nguyễn Đức Cảnh. Ngoài ra, công trình cảnh quan trong nội thành cũng được bày trí đẹp mắt, thu hút; các khách sạn, nhà hàng mới xuất hiện với quy mô hoành tráng, hiện đại, có nhiều nét đặc sắc riêng cũng đã thu hút được đông đảo du khách. Từ tháng 1 năm 2019 khách sạn tiêu chuẩn 5 sao quốc tế Vinpearl Hotel Imperia Hải Phòng đi vào hoạt động đã có những đóng góp đáng kể cho thành phố trong lĩnh vực lưu trú, ăn uống. 
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 6 năm 2019 ước đạt 970,7 tỷ đồng, tăng 4,56% so với tháng trước, tăng 7,83% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 6 tháng/2019, doanh thu dịch vụ khác ước đạt 5.313,47 tỷ đồng, tăng 13,06% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 6/2019, doanh thu các ngành dịch vụ đều có xu hướng tăng hơn so với tháng trước, trong đó tăng mạnh nhất là dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ, tăng 13,74%; dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 5,61%. Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 2,25%. Hàng năm vào các tháng mùa hè nhu cầu về lắp đặt, sửa chữa các thiết bị làm mát tăng nên dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 4,07%. Hoạt động dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 5,92%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 2,86% do tháng 6 học sinh được nghỉ hè nên các lớp học về năng khiếu, hoạt động thể chất được nhiều gia đình lựa chọn cho trẻ em tham gia…
6. Hoạt động lưu trú và lữ hành    
Tổng lượt khách tháng 6/2019 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 887,8 nghìn lượt, tăng 14,03% so với tháng trước và tăng 13,03% so với cùng tháng năm 2018; trong đó khách quốc tế đạt 88,9 nghìn lượt, tăng 6,01% so với tháng trước và tăng 4,04% so với cùng tháng năm trước.
Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2019, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 3.977 nghìn lượt, tăng 11,75% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khách quốc tế đạt 452 nghìn lượt, tăng 13,76% so cùng kỳ năm trước.
Tháng 6/2019, thời tiết nắng nóng cộng với học sinh được nghỉ hè nên nhu cầu du lịch của nhiều hộ gia đình tăng cao. Các bãi biển ở Đồ Sơn, Cát Bà luôn trong tình trạng đông khách, đặc biệt là vào các dịp cuối tuần.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành tháng 6 năm 2019 ước đạt 10,7 nghìn lượt, tăng 7,77% so với tháng trước. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2019, lượt khách du lịch đạt 55,4 nghìn lượt, tăng 4,99% so với cùng kỳ. Nhu cầu đi du lịch của người dân tăng cao do các doanh nghiệp du lịch đưa ra các tour hấp dẫn với mức giá hợp lý, cùng với việc đi lại thuận tiện khiến lượt khách lữ hành tăng.
7. Vận tải hàng hóa và hành khách
7.1. Vận tải hàng hoá

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 6 năm 2019 ước đạt 16,7 triệu tấn, tăng 1,14% so với tháng trước và tăng 15,67% so với cùng tháng năm trước; ước tính 6 tháng/2019 đạt 97,1 triệu tấn, tăng 13,38% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 6 năm 2019 ước đạt 7.859,9 triệu tấn.km, giảm 0,07% so với tháng trước và giảm 2,84% so với cùng tháng năm trước;  ước tính 6 tháng/2019 khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 47.146,5 triệu tấn, tăng 0,48% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 6/2019 tăng so với tháng trước, chủ yếu tăng ở khối đường bộ và thủy nội địa, do các doanh nghiệp tiếp tục nhận được nhiều đơn hàng hơn tháng trước. Tuy nhiên, khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 6/2019 giảm so với tháng trước ở khối đường biển do thời gian xếp dỡ hàng ở một số cảng nước ngoài kéo dài đã tác động đến lượng hàng chu chuyển.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển và luân chuyển 6 tháng/2019 tăng so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu tăng ở khối đường bộ do giao thông đường bộ ngày càng thuận lợi cho việc chu chuyển hàng hóa.
7.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 6 năm 2019 ước đạt 5,9 triệu lượt, tăng 1,73% so với tháng trước và tăng 13,19% so với cùng tháng năm trước; ước tính 6 tháng/2019 đạt 34,2 triệu lượt, tăng 14,91% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 6 năm 2019 đạt 234,4 triệu Hk.km, tăng 1,87% so với tháng trước và tăng 13,22% so với cùng tháng năm trước; ước tính 6 tháng/2019 đạt 1.374,7 triệu lượt, tăng 15,37% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển tháng 6/2019 tăng so với tháng trước, do tháng 6 là tháng cao điểm trong mùa du lịch biển của Hải Phòng nên lượt khách đi xe khách, taxi, tàu biển tuyến Hải Phòng - Cát Bà, Hải Phòng - Đồ Sơn tăng cao so với tháng trước. 
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển 6 tháng đầu năm 2019 tăng so với cùng kì năm trước, tăng chủ yếu ở khối lượng hành khách bộ và đường biển, do quý II vào mùa du lịch và cũng là thời điểm nghỉ hè của học sinh, sinh viên nên nhu cầu đi lại như đi du lịch, tham quan, nghỉ mát…tăng lên. 
7.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Dịch vụ kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6 năm 2019 ước đạt 2.509,1 tỷ đồng, tăng 0,92% so với tháng trước và tăng 17,23% so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 6 tháng/2019, doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 14.697 tỷ đồng, tăng 16,07% so với cùng kỳ năm trước.
7.4. Ga Hải Phòng
Tổng doanh thu tháng 6 năm 2019 Ga Hải Phòng ước đạt 8,3 tỷ đồng, tăng 7,53% so với tháng trước, giảm 0,9% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019 tổng doanh thu của Ga Hải Phòng đạt 63,7 tỷ đồng, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số hành khách vận chuyển tháng 6 năm 2019 ước đạt 40 nghìn lượt người, tăng 14,25% so với tháng trước, giảm 20,08% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019 số hành khách đạt 240,4 nghìn lượt người, giảm 2,75% so với cùng kỳ năm 2018.
Tổng số hàng hóa vận chuyển tháng 6 năm 2019 ước đạt 99 ngàn tấn, tăng 6,14% so với tháng 5/2019, tăng 19% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019  hàng hóa vận chuyển đạt 623,9 ngàn tấn, tăng 6,41% so với cùng kỳ năm 2018.
7.5. Sân bay Cát Bi
Tháng  6 năm 2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 28 tỷ đồng, tăng 6,23% so với tháng trước; tăng 34,64% so với cùng tháng năm 2018; 6 tháng/2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 144,9 tỷ đồng, tăng 28,13% so với cùng kỳ năm trước. 
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 6/2019 ước đạt 1.550 chuyến, tăng 5,16% so với tháng 5/2019, tăng 19,60% so với cùng tháng năm 2018. Ước tính 6 tháng/2019 số lần máy bay hạ, cất cánh đạt 8.152 chuyến, tăng 13,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chuyến bay ngoài nước tháng 6/2019 ước đạt 125 chuyến, với ước tính trên 14 nghìn lượt hành khách thông qua. 
Tổng số hành khách tháng 6/2019 ước đạt 250 nghìn lượt người, tăng 6,16% so với tháng trước, tăng 12,48% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019 tổng số hành khách ước đạt 1.270,9 ngàn lượt, tăng 8,02% so với cùng kỳ năm trước. 
Tổng số hàng hóa tháng 6/2019 ước đạt 1.700 tấn, tăng 5,59% so với tháng trước, tăng 23,55% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019 tổng số hàng hóa thông qua đạt 9.819 tấn, tăng 28% so với cùng kỳ năm trước. Hàng hóa đến và đi hiện nay đa dạng nhiều chủng loại như hải sản, hàng thực phẩm, bánh kẹo, quần áo và hàng tiêu dùng khác.
8. Hàng hoá thông qua cảng
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 6 năm 2019 ước đạt 10.535,3 nghìn TTQ, tăng 1,89% so với tháng trước và tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước. 
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 3.563 nghìn TTQ, giảm 2,72% so với tháng trước và tăng 10,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: 
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước Trung ương ước đạt 3.554 nghìn TTQ, giảm 2,87% so với tháng trước và tăng 10,49% so với cùng kỳ năm trước.
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương ước đạt 9 nghìn TTQ, tăng 169,38% so với tháng trước và tăng 22,93% so với cùng kỳ năm trước. 
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 6.972,3 nghìn TTQ, tăng 4,42% so với tháng trước và tăng 21,58% so với cùng kỳ năm 2018.
Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2019, sản lượng hàng hóa thông qua cảng trên địa bàn thành phố đạt 56.578,6 nghìn TTQ, tăng 9,83% so với cùng kỳ năm 2018.
* Doanh thu cảng biển tháng 6 năm 2019 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 458,3 tỷ đồng, tăng 5,19% so với cùng kỳ. 
Trong 6 tháng đầu năm 2019, các cảng trên địa bàn thành phố đã từng bước đầu tư cơ sở hạ tầng, kỹ thuật nhằm tăng cường năng lực xếp dỡ và tiếp nhận container, tăng khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh công tác marketing, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Một số cảng liên tục đón các tuyến dịch vụ mới với những con tàu có sức chở và trọng tải ngày càng lớn cập cảng làm hàng như Cảng HICT, Cảng Hải Phòng…
9. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 6 năm 2019 giảm 0,05% so với tháng trước, tăng 1,90% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,14% so với tháng 12/2018. CPI bình quân quý 2 năm 2019 tăng 2,37% so với cùng quý năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2019 CPI tăng 2,39% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 2 nhóm có chỉ số giá tháng 6/2019 giảm so với tháng 5/2019 với mức giảm như sau: nhóm giao thông giảm 1,82%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,33%; 08 nhóm còn lại có chỉ số giá tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,13%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,64%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,09%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,37%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%; nhóm giáo dục tăng 0,01%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,87% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,03%. Nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giá không đổi so với tháng trước.  
Nguyên nhân chính làm CPI tháng 6/2019 giảm so với tháng trước là chỉ số giá giá xăng dầu giảm 3,91% làm cho CPI chung giảm 0,13% (trong tháng giá xăng dầu được điều chỉnh giảm 02 lần vào hai ngày 01/6 và ngày 17/6 với tổng mức giảm cụ thể là: xăng RON95-IV giảm 1.460 đồng/lít, xăng E5-RON 92 giảm 1.250 đồng/lít; dầu diesel 0,05S-II giảm 960 đồng/lít); giá gas được điều chỉnh giảm 8,75% làm cho CPI chung giảm 0,09%. Bên cạnh đó cũng có yếu tố làm tăng CPI tháng 6/2019 là chỉ số giá thực phẩm tăng 0,46% làm cho CPI chung tăng 0,10%, trong đó giá thịt lợn tăng 2,39% do trong thời gian dịch tả lợn Châu Phi hoành hành, lợn bị bệnh phải tiêu hủy nhiều khiến nguồn cung khan hiếm đã đẩy giá lợn hơi tăng mạnh; chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 2,29% làm cho CPI chung tăng 0,05%, do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện tăng cao dẫn tới sản lượng tiêu thụ điện trong tháng tăng…
Một số nguyên nhân cơ bản tác động tăng CPI trong quý II/2019: 
- Giá điện được điều chỉnh tăng 8,36% từ ngày 20/3/2019, bên cạnh đó do thời tiết nắng nóng, nhu cầu sử dụng các thiết bị làm mát như điều hòa, quạt điện tăng dẫn tới sản lượng tiêu thụ điện trong tháng tăng cao làm cho giá điện sinh hoạt bình quân trong quý II tăng 6,11% so với cùng kỳ. 
- Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 3,63% do nhu cầu xây dựng tăng cùng với chi phí đầu vào tăng nên giá một số mặt hàng vật liệu xây dựng như: sắt, thép, xi măng... tăng theo. 
- Giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng 03 lần và giảm 03 lần, tổng mức tăng chung trong quý II cụ thể là: xăng RON95-IV tăng 1.590 đồng/lít, xăng E5-RON 92 tăng 2.020 đồng/lít; dầu diesel 0,05S-II tăng 790 đồng/lít; làm cho CPI nhóm xăng, dầu diesel tăng 1,27% trong quý II.
- Từ tháng 4/2019, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tăng giá sách giáo khoa năm học 2019 - 2020 làm cho chỉ số giá nhóm sách giáo khoa tăng 1,43%. 
Các yếu tố kiềm chế CPI quý II năm 2019:
- Giá gạo giảm 4,28% so với quý trước do đang thu hoạch vụ lúa Vụ Đông Xuân nên sản lượng lúa dồi dào.
* Chỉ số giá vàng 99,99% và Đô la Mỹ: 
- Chỉ số giá vàng tháng 6/2019 tăng 1,86% so với tháng trước, tăng 2,00% so với cùng tháng năm 2018, tăng 5,10% so với tháng 12 năm trước. Giá vàng bình quân tháng 6/2019 dao động ở mức 3,730 triệu đồng/chỉ, tăng 68.000 đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2019 tăng 0,28% so với tháng trước, tăng 2,52% so với cùng tháng năm 2018, tăng 0,32% so với tháng 12 năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 6/2019 dao động ở mức 23.430 đồng/USD, tăng 65 đồng/USD.
10. Bưu chính viễn thông
Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông Hải Phòng tháng 6 năm 2019 ước đạt 126,9 tỷ đồng, tăng 3,41% so với tháng trước, giảm 1,52% so với cùng tháng năm 2018. Ước tính 6 tháng/2019 doanh thu bưu chính, viễn thông đạt 721,8 tỷ đồng, tăng 4,71% so với cùng kỳ năm trước.
Số thuê bao điện thoại phát triển mới tháng 6 năm 2019 ước đạt 1.000 thuê bao, giảm 7,06% so với tháng trước, giảm 53,01% so với cùng tháng năm 2018. Ước tính 6 tháng/2019 số thuê bao điện thoại phát triển mới đạt 5.982 thuê bao, giảm 19,18% so với cùng kỳ năm trước. 
Số thuê bao Internet phát triển mới tháng 6 năm 2019 ước đạt 3,5 nghìn thuê bao, tăng 7,07% so với tháng trước, tăng 14,42% so với cùng tháng năm 2018. Ước tính 6 tháng/2019 số thuê bao Internet phát triển mới đạt 15,9 nghìn thuê bao, giảm 21,06% so với cùng kỳ năm trước. 
* Chi nhánh Trung tâm viễn thông quân đội Viettel
Tổng doanh thu của Chi nhánh viễn thông quân đội Viettel tháng 6 năm 2019 ước đạt 110 tỷ đồng, tăng 17,65% so với tháng trước, giảm 3,51% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019 tổng doanh thu của Chi nhánh viễn thông quân đội Viettel ước đạt 758 tỷ đồng, tăng 13,98% so với cùng kỳ năm trước.
Số máy thuê bao điện thoại phát triển mới ước đạt 5,8 nghìn thuê bao, giảm 42,35% so với tháng trước, giảm 14,45% so với cùng tháng năm 2018. Ước tính 6 tháng/2019 số máy thuê bao điện thoại phát triển mới đạt 54 nghìn thuê bao, tăng 58,75% so với cùng kỳ năm trước. 
Số thuê bao Intenet phát triển mới tháng 6/2019 ước đạt 2.000 thuê bao, tăng 12,04% so với tháng 5/2019 và tăng 11,11% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 6 tháng/2019 số thuê bao Intenet phát triển mới đạt 15,9 ngàn thuê bao, tăng 64,28% so với cùng kỳ năm trước.
11. Hoạt động tài chính, ngân hàng 
11.1. Tài chính 

     

Thu, chi ngân sách nhà nước tháng 6, 6 tháng năm 2019

 

Ước tính tháng 6 năm 2019 (Tỷ đồng)

Ước tính 6 tháng năm 2019 (Tỷ đồng)

Ước 6 tháng năm 2019 so với 6 tháng năm 2018 (%)

1. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn

7.700,3

44.568,6

143,4

   Thu ngân sách nhà nước địa phương

2.500,3

13.614,6

119,6

       Trong đó: Thu nội địa

2.400,0

12.593,9

130,8

   Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu

5.200,0

30.954,0

157,2

2. Tổng chi ngân sách địa phương

2.175,9

10.473,4

116,8

      Trong đó:

     

        Chi đầu tư phát triển

967,1

4.661,4

120,9

        Chi thường xuyên

936,4

5.113,9

126,7



Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 6 năm 2019 ước đạt 7.700,3 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa đạt 2.400 tỷ đồng; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 5.200 tỷ đồng. Ước 6 tháng/2019 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 44.568,6 tỷ đồng, tăng 43,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 12.593,9 tỷ đồng, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 30.954 tỷ đồng, tăng 57,2% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 6 tháng/2019, trong số thu nội địa: thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 1.320,6 tỷ đồng, giảm 5,7% so cùng kỳ năm trước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2.614,1 tỷ đồng, tăng 76,5% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 2.083,6 tỷ đồng, tăng 7,9% so cùng kỳ năm trước... 
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 6 năm 2019 ước đạt 2.175,9 tỷ đồng; ước 6 tháng/2019 đạt 10.473,4 tỷ đồng, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi đầu tư phát triển trong chi cân đối ngân sách địa phương đạt 4.661,4 tỷ đồng, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước, chi thường xuyên đạt 5.113,9 tỷ đồng, tăng 26,7% so cùng kỳ năm trước.
11.2. Ngân hàng 
* Công tác huy động vốn:
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến hết tháng 6 năm 2019 đạt 195.430 tỷ đồng, tăng 9,92% so với cùng kỳ năm trước, tăng 6,05% so với năm 2018.
Theo loại tiền: huy động bằng VND ước đạt 184.473 tỷ đồng, tăng 9,32% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 94,39%; ngoại tệ ước đạt 10.957 tỷ đồng, tăng 21,17% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,61%. 
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 138.457 tỷ đồng, tăng 11,87% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 70,85%; tiền gửi thanh toán ước đạt 53.445 tỷ đồng, tăng 6,62% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 27,35%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 3.528 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,8%.
* Công tác tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế ước thực hiện đến hết tháng 6 năm 2019 đạt 120.251 tỷ đồng, tăng 12,67% so với cùng kỳ năm trước, tăng 6,86% so với năm 2018. 
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND đạt 112.855 tỷ đồng, tăng 13,34% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 93,85%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 7.396 tỷ đồng, tăng 3,34% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 6,15%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 53.332 tỷ đồng, tăng 12,05% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 44,35%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 66.919 tỷ đồng, tăng 13,17% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 55,65%. 
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội

* Công tác Lao động, việc làm
Tình hình lao động việc làm trên địa bàn thành phố cơ bản ổn định, số lượng việc làm gia tăng. Sàn giao dịch việc làm và hệ thống thông tin điện tử về nhu cầu tuyển dụng phát huy tốt vai trò kết nối cung - cầu trên thị trường lao động của thành phố, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm có xu hướng được cải thiện. 
Tháng 6 năm 2019, sàn giao dịch việc làm thành phố tổ chức 04 phiên giao dịch việc làm, với sự tham gia tuyển dụng của 139 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 5.675 lượt lao động; ước cấp mới 55 giấy phép lao động, cấp lại 45 giấy phép lao động, miễn cấp 20 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; hướng dẫn, thẩm định và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 10 doanh nghiệp.
Trong 6 tháng đầu năm 2019, ước giải quyết được 28.100 lượt lao động, bằng 51,28% kế hoạch năm và bằng 100,36% so với cùng kỳ năm 2018 (số lao động giải quyết việc làm tăng so với cùng kỳ do giải quyết việc làm trong ngành công nghiệp và xây dựng tăng 1,01% và trong ngành dịch vụ tăng 0,49%, riêng lao động được giải quyết việc làm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm 0,71%). Tính từ đầu năm, thành phố đã tổ chức 20 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng của 603 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 26.804 lượt lao động; cung lao động tại sàn đạt 40.663 lượt người, gấp trên 1,51 lần nhu cầu tuyển dụng; đăng ký bảo hiểm thất nghiệp là 7.124 người (giảm 6,75% so với cùng kỳ), đã giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 6.901 người, với kinh phí hơn 118 tỷ đồng (tăng 23,11% so với cùng kỳ). Ước tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội là 35%, tăng 13,27% so với cùng kỳ.
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn thành phố xảy ra 04 cuộc đình công với 1.347 người tham gia (tăng 01 cuộc và giảm 530 lao động so với cùng kỳ); xảy ra 07 vụ tai nạn lao động làm chết 07 người (giảm 01 vụ và 01 người chết so với cùng kỳ).
* Công tác dạy nghề 
Tháng 6 năm 2019, thành phố tiếp nhận, tổng hợp và thẩm định hồ sơ đề nghị hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2019; chỉnh sửa, hoàn thiện các thiết bị được lựa chọn tham gia Hội thi thiết bị đào tạo tự làm toàn quốc năm 2019, trên cơ sở kết quả của hội thi cấp thành phố đã diễn ra trong tháng 5/2019.
Trong 6 tháng đầu năm 2019, thành phố đã thực hiện kiểm tra hoạt động giáo dục nghề nghiệp tại 06 cơ sở trên địa bàn, đồng thời đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát các dự án, chương trình giáo dục nghề nghiệp năm 2019, trên cơ sở đó thẩm định hồ sơ để cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp cho các đơn vị theo đúng quy định.
Tính đến nay, tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp và có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố là 70 đơn vị (gồm 59 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 11 cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp). Công tác tuyển sinh đào tạo nghề nghiệp trên toàn thành phố ước đạt 19.300 học sinh, sinh viên, người lao động, đạt 37,8% kế hoạch năm và bằng 95,3% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó, trình độ cao đẳng, trung cấp đạt khoảng 1.300 học sinh, sinh viên (chiếm 7% tổng số tuyển sinh, bằng 104% so với cùng kỳ). Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 81,2%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ trở lên đạt 33,5%.
* Công tác người có công
Tính đến tháng 6 năm 2019, thành phố đã tiếp nhận và tiến hành giải quyết theo đúng chế độ cho các đối tượng chính sách trên địa bàn như sau: Quyết định trợ cấp một lần và trợ cấp mai táng phí cho 1.337 trường hợp; trợ cấp thờ cúng liệt sĩ 240 người; xác nhận miễn giảm tiền sử dụng đất theo Quyết định 118/QĐ-TTg 28 trường hợp; quyết định về việc thực hiện chế độ ưu đãi trong giáo dục và đào tạo đối với người có công và con của họ 04 đối tượng; cấp sổ theo dõi việc cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình đối với người có công cho 03 đối tượng; quyết định điều dưỡng phục hồi sức khỏe đối với 10.739 người có công và thân nhân liệt sĩ; tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 432 trường hợp; công nhận, đề nghị công nhận 246 người có công.
 Bên cạnh đó, thành phố thực hiện mua thẻ bảo hiểm y tế bằng nguồn ngân sách Trung ương và thành phố cho khoảng 81.000 người có công và thân nhân; tiến hành thẩm định 3.143 hộ gia đình người có công đề nghị hỗ trợ cải thiện điều kiện nhà ở theo Nghị quyết số 32/2013/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố, trên cơ sở đó đưa ra quyết định phù hợp với tiêu chuẩn và điều kiện quy định.  
* Công tác giảm nghèo - Bảo trợ xã hội
Nhằm nâng cao đời sống của người dân thành phố, nhất là đối với các đối tượng bảo trợ xã hội, tầng lớp dân nghèo, công tác bảo trợ xã hội của thành phố luôn được quan tâm thực hiện kịp thời và hiệu quả. 
Tháng 6/2019, tiếp nhận 02 đối tượng vào các Trung tâm bảo trợ xã hội, tập trung được 55 lượt người lang thang. Triển khai Kế hoạch kiểm tra công tác thực hiện chính sách trợ giúp xã hội trên địa bàn thành phố năm 2019; tổ chức các lớp bồi dưỡng thực hiện Đề án nhân rộng mô hình câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau năm 2019 tại huyện Thủy Nguyên; tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện tiêu chí nông thôn mới tại các huyện: Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, An Lão, Kiến Thụy, Thủy Nguyên, An Dương năm 2019 .
Trong 6 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tiếp nhận 20 đối tượng đưa vào điều trị, chăm sóc và nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội, tập trung được 341 lượt người lang thang trên địa bàn (giảm 131 lượt người, tương ứng giảm 38,4% so với cùng kỳ); thực hiện chi trả trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng và các chế độ hỗ trợ kinh phí đối với 74.818 người (tăng 3,7% so với cùng kỳ) đảm bảo kịp thời, đầy đủ và đúng chế độ.
Bên cạnh đó, thành phố tích cực hướng dẫn, đôn đốc các quận, huyện cấp 103.295 thẻ bảo hiểm y tế (bằng 97,2% so với cùng kỳ), với số tiền là trên 76,03 tỷ đồng cho các đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. Hỗ trợ 26.864 thẻ bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ gia đình nông, lâm, ngư nghiệp có mức sống trung bình (bằng 61,01% so với cùng kỳ).
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Trong tháng 6/2019 tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại cơ sở cai nghiện ma túy cho 1.402 lượt người, cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 25 người; đoàn kiểm tra liên ngành của thành phố kết hợp với các quận, huyện đã kiểm tra 31 buổi tại 124 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn, quán karaoke...
Tính chung 6 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện ma túy cho 2.115 lượt người (bằng 99,95% so với cùng kỳ, bằng 78,3% so với kế hoạch năm), cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 153 người (bằng 78,06% so với cùng kỳ, bằng 49,4% so với kế hoạch năm). Phối hợp với công an quận, huyện tiến hành 38 đợt xét nghiệm tìm chất ma túy cho 169 đối tượng bị bắt giữ, kết quả có 51 trường hợp dương tính với ma túy; tăng cường chỉ đạo các đoàn kiểm tra liên ngành, kết quả đã tiến hành kiểm tra 186 buổi tại 735 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn, quán karaoke...(bằng 103,7% so với cùng kỳ), trên cơ sở đó đã lập biên bản chuyển thanh tra chuyên ngành xử phạt 08 cơ sở vi phạm hành chính về lĩnh vực lao động và lĩnh vực văn hóa với số tiền là 15 triệu đồng.
2. Giáo dục - Đào tạo
Trong 6 tháng đầu năm 2019, các đơn vị thuộc ngành Giáo dục trên địa bàn thành phố tích cực triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Tính đến nay các ngành học, cấp học đã triển khai thực hiện xong nhiệm vụ năm học 2018 - 2019. Chất lượng giáo dục toàn diện được giữ vững, nội dung, phương pháp giảng dạy từng bước được đổi mới theo định hướng phát triển năng lực học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2019, thành phố Hải Phòng có 72 thí sinh đoạt giải, trong đó: 06 giải nhất, 23 giải nhì, 18 giải ba và 25 giải khuyến khích. Trong kỳ thi chọn học sinh dự thi Olympic quốc tế năm 2019, Hải Phòng có 02 học sinh được lựa chọn (Toán học 01, Tin học 01). Trong kỳ thi học sinh giỏi các trường chuyên, Hải Phòng có 69 giải (18 vàng, 22 bạc, 19 đồng và 10 khuyến khích), đứng thứ nhất về số lượng giải và đứng thứ 3 về số lượng huy chương vàng.
Kỳ thi THPT quốc gia và xét công nhận tốt nghiệp THPT năm 2019 diễn ra từ ngày 24 đến 27/6/2019. Theo dự kiến, kỳ thi THPT quốc gia 2019 tại Hải Phòng có 42 điểm thi chia đều ở các quận, huyện; đến thời điểm này các trường đã chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất cũng như những trang thiết bị cần thiết để sẵn sàng phục vụ cho kỳ thi.
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm 
* Công tác y tế dự phòng
Tình hình phòng chống dịch bệnh: Ngành Y tế đã chỉ đạo các đơn vị trên địa bàn thành phố chủ động, tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, hóa chất, phương tiện để sẵn sàng khống chế, ngăn chặn các loại dịch bệnh. 
Trong 6 tháng đầu năm 2019, đẩy mạnh giám sát tại các cơ sở y tế, tính đến nay đã thực hiện 314 lượt giám sát dịch tễ chủ động tại các bệnh viện tuyến thành phố, 31 lượt giám sát vec tơ truyền bệnh sốt xuất huyết Dengua tại các quận, huyện và 25 lượt giám sát tiêm chủng tại 14/15 quận, huyện. Bên cạnh đó, tiếp tục phối hợp chặt chẽ giữa Sở Y tế với Chi cục Thú y - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc phát hiện sớm dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, đặc biệt dịch tả lợn Châu Phi để chủ động bao vây, xử lý dịch. 
Diễn biến một số bệnh truyền nhiễm trên địa bàn thành phố trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ như sau: 70 ca sốt xuất huyết (tăng 39 ca); 271 ca thủy đậu (giảm 165 ca); 103 ca quai bị (giảm 73 ca); 32 ca bệnh ho gà (tăng 31 ca); 97 ca hội chứng lỵ (giảm 141 ca); 5 ca bệnh viêm não virus (giảm 6 ca) và không phát sinh các dịch bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm.
Ngoài ra, thành phố đã tổ chức triển khai hiệu quả chiến dịch ngày vi chất dinh dưỡng và uống vitamin A đợt I năm 2019 tại 223 xã, phường, thị trấn cho trẻ em từ 6-36 tháng tuổi và bà mẹ vừa sinh con trong vòng 1 tháng. Công tác khám, chữa bệnh được thực hiện nghiêm túc tại các tuyến điều trị, đồng thời  đẩy mạnh áp dụng công nghệ kỹ thuật cao, phát triển kỹ thuật mới, chuyên sâu tại các bệnh viện tuyến thành phố.
* Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong nửa đầu năm 2019, toàn ngành Y tế trên địa bàn thành phố chú trọng thực hiện hiệu quả, đúng lộ trình Nghị quyết 17 của HĐND thành phố về "Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác đảm bảo an toàn thực phẩm giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030", triển khai kế hoạch kiểm tra an toàn thực phẩm trong kinh doanh dịch vụ ăn uống đối với các bếp ăn tập thể, nhà ăn, căng tin ăn uống và các cơ sở kinh doanh suất ăn sẵn năm 2019.
Từ đầu năm đến nay, đã có 3 đoàn thanh tra liên ngành về an toàn thực phẩm của thành phố và 32 đoàn thanh tra của quận, huyện tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn toàn thành phố. Kết quả kiểm tra: Tổng số cơ sở được kiểm tra là 12.957 cơ sở, số cơ sở đạt yêu cầu là 10.266 cơ sở (chiếm 79,2%, tăng 3,1% so với cùng kỳ). Kết quả xử lý vi phạm: Phạt hành chính đối với 75 cơ sở có vi phạm với số tiền phạt là 212,9 triệu đồng; hủy sản phẩm đối với 07 cơ sở và nhắc nhở đối với 2.562 cơ sở. Công tác an toàn thực phẩm được triển khai hiệu quả, không để xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào, giảm 02 vụ so với cùng kỳ.
* Công tác phòng chống HIV/AIDS
Thành phố đẩy mạnh công tác phòng chống HIV/AIDS, hướng tới thực hiện Kế hoạch 90-90-90 và chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo đúng cam kết, lộ trình đã đề ra. Trong nửa đầu năm 2019, đã tổ chức được 1.866 lượt truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, thu hút được 39.635 lượt người tham gia, cấp phát 14.645 tờ rơi, sách báo, tăng cường huy động sự tham gia của các đơn vị, tổ chức, cá nhân và cộng đồng vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Tính đến tháng 6/2019, trên địa bàn toàn thành phố có 18 cơ sở điểu trị Methadone, tổng số bệnh nhân điều trị là 3.874 người, đạt 84% chỉ tiêu được giao, số bệnh nhân đạt liều duy trì là 95%. So với cùng kỳ năm 2018, tổng số bệnh nhân điều trị giảm 14 người, số bệnh nhân mới tham gia điều trị tăng 38 người và số bệnh nhân ngừng điều trị tăng 41 người.
4. Văn hóa - Thể thao
* Công tác văn hóa
Trong 6 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tập trung tổ chức tuyên truyền, cổ động trực quan, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, phong phú, đa dạng, tạo được không khí vui tươi, sôi nổi, thiết thực chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của đất nước và thành phố.
Nhìn chung các hoạt động, phong trào văn hóa được tổ chức ngày càng đạt trình độ cao về chất lượng nghệ thuật và năng lực tổ chức. Trong đó, tiêu biểu là chương trình biểu diễn nghệ thuật đêm giao thừa - đón xuân Kỷ Hợi 2019; đăng cai tổ chức Liên hoan âm nhạc Asean - 2019 với 10 quốc gia tham dự; các chương trình nghệ thuật tại Lễ khánh thành Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và tại buổi đón đoàn lãnh đạo cấp cao Triều Tiên về thăm Hải Phòng; chương trình Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân; Lễ hội kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ về thăm Làng cá, ngày truyền thống ngành thủy sản Việt Nam và khai mạc du lịch Cát Bà năm 2019; và đặc biệt là đêm hội “Hải Phòng - Điểm đến thành công” chào mừng kỷ niệm 64 năm Ngày Giải phóng Hải Phòng và Lễ hội Hoa Phượng đỏ - Hải Phòng 2019. Các hoạt động, lễ hội diễn ra tuyệt đối an toàn, thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham gia, hưởng ứng.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tiếp tục được quan tâm, chú trọng, tăng cường hiệu quả công tác quản lý, tổ chức lễ hội, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, triển lãm phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí của nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện hiệu quả phong trào xây dựng gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa.
* Công tác thể thao
Thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn thành phố tiếp tục phát triển sâu rộng, thu hút được sự quan tâm, hỗ trợ, phối hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân, đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2020, tính đến nay, tổng số câu lạc bộ thể dục thể thao là 2.550 câu lạc bộ, tỷ lệ người tập thể thao thường xuyên đạt 33%, số gia đình thể thao đạt 18,5%, trường học dạy thể dục thể thao ngoại khóa đạt 84%...
Tổ chức và phối hợp tổ chức thành công 11 giải thi đấu thể dục thể thao quần chúng, huy động được sự tham gia tích cực của các quận, huyện, đơn vị trên địa bàn thành phố. Công tác xây dựng lực lượng vận động viên tiếp tục được chú trọng, phát huy thành tích tại một số môn thể thao mũi nhọn. Trong 6 tháng đầu năm 2019, đoàn vận động viên Hải Phòng đã tham gia thi đấu 32 giải thể thao quốc gia, quốc tế, giành được 90 huy chương các loại, trong đó: 28 huy chương Vàng, 25 huy chương Bạc và 37 huy chương Đồng, phá 03 kỷ lục. 
Bên cạnh đó, trung tâm bóng đá Hải Phòng tập trung tập huấn các đội bóng đá U11, U13, U15 và U17 chuẩn bị lực lượng tham gia các giải toàn quốc, tiếp tục hoàn thiện Dự thảo đề án phát triển bóng đá Hải Phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 16/5/2019 đến ngày 15/6/2019, toàn thành phố xảy ra 09 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 08 người và 02 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ tai nạn giao thông tăng 01 vụ, số người chết tăng 01 người và số người bị thương giảm 05 người. Không có trường hợp tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng xảy ra, nguyên nhân chủ yếu là do sự bất cẩn, chưa tuân thủ đúng quy định của người tham gia giao thông. 
Cộng dồn từ đầu năm, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 45 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 38 người và bị thương 13 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 02 vụ (tương ứng giảm 4,17%), số người chết giảm 01 người và số người bị thương giảm 10 người.  
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Cùng khoảng thời gian từ ngày 16/5/2019 đến ngày 15/6/2019, thành phố Hải Phòng đã xảy ra 09 vụ cháy, trong đó có 04 vụ cháy nhà dân, làm 3 người bị thương, và giá trị thiệt hại về tài sản ước tính là 120.810 triệu đồng. 
Tính chung 6 tháng đầu năm, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 48 vụ cháy, bằng 72,73% so với cùng kỳ năm 2018, làm 01 người bị chết và 04 người bị thương, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính là 120.921 triệu đồng. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy; đồng thời đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền về phòng chống cháy nổ nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong công tác phòng cháy chữa cháy.
Khái quát lại, kinh tế - xã hội thành phố 6 tháng đầu năm 2019 tiếp tục giữ được đà tăng trưởng tốt, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 16,30%, cao nhất từ trước đến nay, đứng thứ 3 cả nước; hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của thành phố đạt mức tăng cao so với cùng kỳ; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế như: giải phóng mặt bằng tại một số dự án hạ tầng kỹ thuật của thành phố chưa đảm bảo tiến độ; xuất hiện dịch bệnh nghiêm trọng chưa kiểm soát được trong sản xuất nông nghiệp là dịch tả lợn Châu Phi…
Sáu tháng cuối năm, kinh tế cả nước và thành phố dự báo có nhiều thuận lợi, bên cạnh đó tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; các ngành, địa phương, đơn vị cần thực hiện nghiêm túc và đồng bộ chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố, quyết tâm phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đã đề ra trong năm 2019, trong đó tiếp tục thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau: 
Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, tích cực tăng thu ngân sách.
Hai là, tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trên địa bàn thành phố.
Ba là, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, dịch bệnh.
Bốn là, tiếp tục chăm lo đến công tác an sinh, phúc lợi xã hội, ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, trị an./.

Tác giả: Cục Thống kê Hải Phòng

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây