Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 4/2019

Thứ hai - 29/04/2019 15:01
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 4 năm 2019 tăng 0,13% so với tháng trước, tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,69% so với tháng 12/2018. CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,47% so với cùng kỳ năm trước
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 4, 4 THÁNG NĂM 2019
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số phát triển sản xuất (PTSX) công nghiệp (IIP) tháng 4/2019 ước tăng 0,97% so với tháng trước và tăng 26,71% so với cùng kỳ. Dự tính 4 tháng đầu năm 2019 IIP tăng 23,01% so với cùng kỳ, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo duy trì tốc độ tăng cao, tăng 26,30%, đóng góp 23,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung với trụ cột chính là ngành sản xuất thiết bị truyền thông và ngành sản xuất mô tơ, máy phát điện; ngành công nghiệp khai khoáng tăng 15,65%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 13,40%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào mức tăng chung; riêng ngành sản xuất và phân phối điện giảm 5,34%, làm giảm 0,77 điểm phần trăm mức tăng chung.

Trong 51 nhóm ngành kinh tế cấp 4 có 30 ngành có chỉ số sản xuất tăng trong đó: ngành sản xuất mô tơ, máy phát điện là ngành có mức tăng cao nhất, tăng 216,52%; tiếp theo ngành sản xuất thiết bị truyền thông tăng 123,69%; ngành tái chế phế liệu đứng thứ 3 với mức tăng 113,88%...
Có 21 ngành có chỉ số sản xuất giảm, trong đó: sản xuất đồ chơi tiếp tục giảm 84,55%; dịch vụ in giảm 39,07%; sản xuất bia giảm 33,27%; sản xuất lốp xe giảm 6,54%;...


Tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp có đóng góp quan trọng đối với tăng trưởng toàn ngành công nghiệp thành phố trong tháng 4 và 4 tháng/2019:  
Chi nhánh công ty TNHH GE Hải Phòng với sản phẩm chủ đạo là máy phát điện tuabin gió và các linh kiện hệ thống điều khiển điện. Dự kiến tháng 4/2019, sản lượng sản xuất và doanh thu giảm nhẹ so với tháng 3/2019 do các đơn hàng tập trung nhiều trong tháng 3, tính chung 4 tháng/2019 sản lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng cao hơn so với cùng kỳ. Kết quả này là nỗ lực cải tiến, ứng dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, không ngừng nâng cao hiệu suất của nhà máy cùng với lượng đơn hàng dồi dào từ nhà máy tại Trung Quốc chuyển sang. 
Ba doanh nghiệp thuộc tập đoàn LG trong 4 tháng đầu năm 2019 dự kiến đóng góp cho ngành công nghiệp thành phố hơn 40 nghìn tỷ đồng doanh thu, tăng 43% so cùng kỳ, thu hút và tạo việc làm cho hơn 14 nghìn lao động, trong đó công ty TNHH LG Display Hải Phòng tuy mới đi vào hoạt động gần 2 năm nhưng với mức tăng trưởng mạnh mẽ trong 4 tháng/2019 đã đóng góp gần 17 nghìn tỷ đồng doanh thu, thu hút hơn 10,8 nghìn lao động, tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm 2018; công ty TNHH LG Innotek đã đưa nhà xưởng 1 hoạt động 100% công suất và tiếp tục tăng công suất nhà xưởng 2, dự kiến sản lượng sản xuất trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng cao...
Tổ hợp sản xuất ô tô và xe máy điện VinFast: sau một tháng mở bán với mức giá ưu đãi và 2 lần điều chỉnh giá bán, mức giá hiện tại của 2 phiên bản khá cao so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường nên sản lượng sản xuất và tiêu thụ của nhà máy trong tháng 4/2019 dự kiến giảm so với các tháng trước. Thời gian tới doanh nghiệp sẽ đưa ra thị trường sản phẩm xe máy điện mới thay thế cho 2 dòng xe hiện có. Bên cạnh sản phẩm xe máy điện, nhà máy sản xuất ô tô sẽ khánh thành và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6/2019, sớm 3 tháng so với dự kiến ban đầu. Hiện tại sản phẩm ô tô của doanh nghiệp đang được kiểm định và đánh giá cao bởi các trung tâm kiểm định hàng đầu thế giới, dự kiến sản xuất hàng loạt vào cuối quý 2/2019 và đưa đến tay khách hàng vào quý 3/2019.
Công ty TNHH VinSmart được thành lập từ tháng 6/2018 và đi vào sản xuất chính thức từ tháng 12/2018, các sản phẩm của doanh nghiệp thuộc nhóm giá rẻ và tầm trung, phân khúc phù hợp với điều kiện tài chính của phần đông người dùng Việt. Dự kiến tháng 4/2019 sản lượng sản xuất và tiêu thụ cao hơn tháng trước; tháng 4/2019 công ty đã thực hiện xuất khẩu với sản lượng xuất khẩu dự kiến khoảng 12,5 nghìn sản phẩm.
Sản xuất xi măng 4 tháng/2019 tăng 5,01% so với cùng kỳ, đây là sự nỗ lực của các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu, các chỉ tiêu sản xuất và tiêu thụ tháng 3/2019 đều cao hơn so với dự tính mặc dù từ cuối tháng 3 đã có sự điều chỉnh giá bán, tăng khoảng 2-3% do tác động của tăng giá điện. Tháng 4/2019 bắt đầu vào mùa xây dựng, thời tiết thuận lợi nên khối lượng sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp dự kiến tiếp tục tăng cao.
Bên cạnh các dự án công nghiệp FDI đi vào sản xuất từ những năm trước như  LS Vina, Kyocera, Fuji Xerox, Robotech tăng công suất, đầu tư mở rộng…, các doanh nghiệp công nghiệp truyền thống trong nước như sản xuất sản phẩm từ plastic,  sản xuất giày dép, may mặc,... đều đạt mức tăng trưởng dương trong 4 tháng đầu năm 2019. Các doanh nghiệp này đều dự tính sản xuất 4 tháng/2019 tăng so cùng kỳ như: sản xuất máy văn phòng tăng 19,95%; sản xuất dây và cáp điện tăng 19,18%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 5,49%; sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng 39,39%; các ngành sử dụng nhiều lao động như sản xuất giày dép tăng 4,77%; may mặc tăng 29,1%...
Tháng 4/2019 có 2 kỳ nghỉ lễ lớn là Giỗ tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5 nên hầu hết các doanh nghiệp đều điều chỉnh giảm kế hoạch sản xuất để người lao động nghỉ lễ theo đúng quy định. Bên cạnh đó, tháng 4 và 4 tháng/2019 tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp ở các ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn giảm so cùng kỳ, cụ thể:
Sản xuất sắt thép 4 tháng/2019 ước giảm 10,7% so với cùng kỳ, là mức sản lượng thấp nhất so với cùng kỳ 2 năm (4 tháng/2017 tăng 44,15%, 4 tháng/2018 tăng 0,26% so với cùng kỳ), do cung đang vượt quá cầu, cạnh tranh gay gắt ngay tại thị trường nội địa, giá thép biến động, phôi nguyên liệu khan hiếm đã đẩy giá thành sản xuất tăng cao ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Dự kiến những tháng tới ngành sản xuất thép sẽ gặp nhiều khó khăn khi chịu ảnh hưởng của việc tăng giá điện làm tăng thêm chi phí sản xuất.
Ngành sản xuất và phân phối điện 4 tháng/2019 giảm 5,34% so với cùng kỳ, trong đó công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng dự kiến 4 tháng/2019 khối lượng điện sản xuất bằng 92,5% so cùng kỳ do sang tháng 4 bắt đầu vào mùa mưa nên khối lượng điện sản xuất giảm.
Ngành sản xuất bê tông ước tốc độ PTSX 4 tháng/2019 giảm 10,91% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp có khối lượng sản xuất lớn là công ty TNHH bê tông và xây dựng Minh Đức giảm 11,1% so với cùng kỳ do năm 2018 doanh nghiệp có hợp đồng cung cấp khối lượng lớn sản phẩm cọc bê tông cho dự án Vinfast.
Ngành đóng tàu và cấu kiện nổi sau nhiều tháng tốc độ PTSX giảm mạnh do một số doanh nghiệp đóng tàu gặp khó khăn trong tìm kiếm hợp đồng như công ty đóng tàu Phà Rừng, công ty TNHH MTV đóng tàu Nam Triệu, công ty TNHH MTV đóng tàu Bạch Đằng… Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp đóng tàu có kết quả sản xuất kinh doanh tốt như Nhà máy đóng tàu Bến Kiền 4 tháng/2019 tăng 82,4%; công ty TNHH MTV đóng tàu Hồng Hà tăng 29,1% so với cùng kỳ kéo chỉ số sản xuất công nghiệp ngành đóng tàu 4 tháng/2019 còn giảm nhẹ 3,3% so với cùng kỳ năm 2018.
Ngành sản xuất đồ chơi 4 tháng/2019 giảm mạnh, giảm 84,55% so với cùng kỳ năm 2018 do doanh nghiệp có khối lượng sản xuất lớn nhất là công ty TNHH Vĩnh Chân chuyển sang Hải Dương; ngành sản xuất bia giảm 33,27% do công ty cổ phần bia Habeco ngừng sản xuất bia hơi, công ty cổ phần bia Hà Nội - Hải Phòng giảm lượng bia chai sản xuất chỉ còn 13,2% so với cùng kỳ;...
 * Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 4/2019 giảm 9,5% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 4 tháng năm 2019 chỉ số tiêu thụ tăng 4,6%, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao so cùng kỳ: sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản tăng 39,2%; sản xuất bánh bi, bánh răng, hộp số tăng 17,5%; sản xuất plastic và cao su tăng 14,2%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 66,8%; sản xuất môtơ, máy phát tăng 153% ...
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất thiết bị truyền thông giảm 44,3%; sản xuất bia giảm 35,1%; sản xuất phân bón giảm 32,7%; sản xuất săm lốp cao su giảm 9,4%; sản xuất giày, dép giảm 1,8%....
* Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 30/4/2019 tăng 6,7% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 84,2%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 171%; sản xuất phân bón tăng 40%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 18,3%; sản xuất xi măng tăng 16,2%; sản xuất thuốc lá tăng 84,1%...
Một số ngành có chỉ số tồn kho so với cùng kỳ giảm như: sản xuất săm lốp cao su giảm 23,7%; sản xuất bi, bánh răng, hộp số giảm 4,7%; sản xuất may trang phục giảm 54,5%...
* Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 30/4/2019 tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 7,9%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 10,7%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,6%. 
Chia theo ngành cấp I: ngành khai khoáng tăng 4,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,9%; ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý nước rác thải, nước thải tăng 0,2%. 
Trong 51 ngành cấp 4, một số ngành chỉ số sử dụng lao động tăng cao: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 107,2%; sản xuất trang phục tăng 18,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 27,4%; sản xuất thuốc hóa dược tăng 15,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 2,3%. Một số ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm so cùng kỳ như: sản xuất đồ uống giảm 18,6%; sản xuất kim loại giảm 12,9%; sửa chữa máy móc giảm 8,8%.
* Một số sản phẩm công nghiệp ước 4 tháng năm 2019 so cùng kỳ: quần áo các loại đạt 46,8 triệu cái, tăng 15,7%; phân bón đạt 72,7 nghìn tấn, giảm 20,1%; màn hình khác đạt 3.480,7 nghìn cái, tăng 22,5%; máy giặt đạt 571,5 nghìn cái, tăng 55,8%; lốp hơi mới bằng cao su đạt 867,5 nghìn cái, giảm 6,5%; sắt thép các loại đạt 437,5 nghìn tấn, giảm 6,1%; xi măng Portland đen đạt 1.593 nghìn tấn, tăng 5%; điện sản xuất đạt 2.325 triệu Kwh, giảm 7,5%.
Tải về Biểu số liệu IIP 
2. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
2.1. Nông nghiệp

* Trồng trọt
Sản xuất vụ Đông
Trên địa bàn thành phố đã thu hoạch xong cây trồng vụ Đông. Tổng diện tích gieo trồng cây vụ Đông đạt 7.449,2 ha, bằng 97,03%, giảm 228,2 ha so với vụ Đông năm trước, trong đó: Diện tích cây ngô đạt 305,2 ha, bằng 88,52%; cây khoai lang đạt 388,7 ha, bằng 91,93%; rau các loại đạt 5.473,1 ha, bằng 88,37%; đậu/đỗ các loại đạt 28,9 ha, bằng 177,3%; ớt cay đạt 456,9 ha, bằng 108,92% so với vụ Đông năm trước...
Năng suất cây trồng giữ được ổn định và có xu hướng tăng so với vụ Đông năm trước, cây ngô đạt 53,4 tạ/ha, bằng 100,53%; cây khoai lang đạt 115,1 tạ/ha, bằng 100,48%; rau các loại đạt 231,84 tạ/ha, bằng 101,85%; đậu/đỗ các loại đạt 14,1 tạ/ha, bằng 100,25%; ớt cay đạt 230 tạ/ha, bằng 99,76% so với vụ đông năm trước.
Sản lượng cây ngô đạt 1.629,8 tấn, bằng 88,99%; cây khoai lang đạt 4.473,9 tấn, bằng 92,37%; rau các loại đạt 126.888,5 tấn, bằng 90%; đậu/đỗ các loại đạt 40,9 tấn, bằng 177,75%; ớt cay đạt 10.508,7 tấn, bằng 108,66% so với vụ Đông năm trước.
Sản xuất vụ Xuân
Tính đến ngày 15 tháng 4 năm 2019, diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Xuân toàn thành phố đạt 40.125,7 ha, bằng 97,07%, giảm 1.211,7 ha so với vụ Xuân năm trước (giảm chủ yếu là diện tích gieo trồng cây lúa), trong đó: Diện tích lúa Xuân đã gieo cấy ước đạt 32.645,7 ha, bằng 95,27%, diện tích cấy lúa giảm do một phần đất canh tác chuyển đổi mục đích sử dụng cho các dự án khu công nghiệp, công trình xây dựng... Đến nay các trà lúa sinh trưởng phát triển khá tốt, đồng đều, không có biểu hiện nghẹt rễ, khả năng đẻ nhánh trung bình từ 8-12 dảnh/khóm; diện tích lúa đã trỗ đạt 297 ha (trà xuân sớm đang ở giai đoạn đòng-trỗ, trà xuân muộn đang giai đoạn làm đòng). 
Diện tích cây hàng năm khác vụ Xuân ước đạt 7.480 ha, bằng 105,76% so với vụ Xuân năm trước, trong đó: cây ngô đạt 353,7 ha, bằng 97,22%; cây khoai lang đạt 313,2 ha, bằng 143,67%; cây thuốc lào đạt 1.999 ha, bằng 94,6%; cây rau các loại đạt 3.701,4 ha, bằng 102,4%.
Tình hình sâu bệnh trên cây trồng: diện tích lúa nhiễm sâu cuốn lá nhỏ khoảng 18.000 ha (bằng 55% diện tích gieo cấy), dự kiến thời gian phun thuốc phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ từ ngày 18/4/2019 đến 22/4/2019 kết hợp với phun trừ bệnh đạo ôn và một số sâu bệnh hại khác.
Giai đoạn hiện nay các cây trồng vụ Xuân sinh trưởng và phát triển tương đối ổn định, ít sâu bệnh. Lúa phát triển tốt, đồng đều, các loại cây rau màu vụ xuân hè hầu hết là nhóm rau ăn lá được các địa phương tổ chức sản xuất ổn định, cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt; thị trường tiêu thụ ổn định và được giá…
* Chăn nuôi
Ước tính tháng 4 năm 2019, số lượng đầu con gia súc, gia cầm toàn thành phố hiện có như sau: đàn trâu đạt 4.954 con, bằng 96,25% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò đạt 12.283 con, bằng 95,55% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm phát triển ổn định, có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là chăn nuôi gà, tổng đàn gia cầm đạt 7.286,2 nghìn con, bằng 104,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó đàn gà đạt 5.760,6 nghìn con, bằng 104,21% so với cùng kỳ; chăn nuôi lợn tiếp tục giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi, đàn lợn đạt 336.799 con, bằng 83,03% so với cùng kỳ năm trước.
Giá sản phẩm các loại chăn nuôi gia cầm duy trì ở mức ổn định, giá lợn hơi xuất chuồng cũng ổn định so với tháng trước. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên một bộ phận người dân vẫn có tâm lý e ngại, hạn chế sử dụng thịt lợn làm sức tiêu dùng trên thị trường có chiều hướng giảm, nhiều hộ chăn nuôi đến kỳ xuất bán nhưng khó tìm được thương lái đến mua. 
Tình hình dịch bệnh: sau gần hai tháng xuất hiện dịch tả lợn Châu Phi đến nay tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, số lợn nhiễm dịch có nguy cơ tăng cao. Tính đến 17h ngày 23/4/2019, dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 8.780 hộ thuộc 10 huyện, quận: Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Dương, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, An Lão, Dương Kinh, Hải An, Kiến An và Đồ Sơn. Số lợn bắt buộc phải tiêu hủy 73.891 con (gồm: 14.046 con lợn nái, 142 con lợn đực giống, 34.663 con lợn thịt, 25.040 con lợn con); trọng lượng tiêu hủy 3.837,2 tấn; giá trị thiệt hại của người chăn nuôi ước khoảng 123 tỷ đồng.
Công tác phòng chống dịch bệnh: các cấp, ngành tiếp tục cùng người chăn nuôi nỗ lực thực hiện các giải pháp đồng bộ trong công tác dập và phòng chống dịch, tại các địa phương tổ chức triển khai, hướng dẫn phun hóa chất khử trùng tiêu độc, sử dụng vôi bột tiêu độc tại ổ dịch, vùng dịch, vùng bị dịch uy hiếp, vùng đệm... theo quy định; tăng cường công tác giám sát dịch tới tận các cơ sở, hộ chăn nuôi, cử cán bộ thường trực 24/24 giờ tiếp nhận, xử lý thông tin dịch bệnh động vật trên địa bàn... Tại các đầu mối giao thông chính vào thành phố có 05 chốt kiểm dịch liên ngành thực hiện nghiêm các qui định 24/24 giờ trong ngày. 
2.2. Lâm nghiệp
Ước tính tháng 4 năm 2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 190 m3, bằng 95% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 5.250 ste, bằng 97,22% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 34 nghìn cây, bằng 95,77% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 4 tháng năm 2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 775 m3, bằng 96,15% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 17.202 ste, bằng 97,12% so với cùng kỳ năm trước (sản lượng gỗ, củi chủ yếu được khai thác và thu nhặt từ cây lâm nghiệp trồng phân tán); cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 102 nghìn cây, bằng 97,14% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng 4/2019 không có vụ cháy rừng nào xảy ra. Thực hiện 4 tháng/2019 toàn thành phố xảy ra 01 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị cháy là thảm thực bì nên không ảnh hưởng đến diện tích rừng hiện có.
2.3. Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 4/2019 ước đạt 14.764,4 tấn, tăng 2,99% so với cùng kỳ năm trước; ước 4 tháng/2019 sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản đạt 55.522,5 tấn, tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước. 
* Nuôi trồng 
Diện tích nuôi trồng thủy sản 4 tháng/2019 ước đạt 11.636,8 ha, tăng 1,04% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 6.713,8 ha, tăng 2,07%; tôm các loại đạt 3.610,1 ha, giảm 0,32%; thủy sản khác đạt 1.312,9 ha, giảm 0,36%. 
Sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch tháng 4/2019 ước đạt 6.197,5 tấn, tăng 1,73% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 3.694,6 tấn, giảm 0,32%, tôm các loại đạt 540,3 tấn, tăng 0,58%, thủy sản khác đạt 1.962,6 tấn, tăng 6,18%. Ước 4 tháng/2019, sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch đạt 24.568,7 tấn, tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 15.423,1 tấn, tăng 2,61%; tôm các loại đạt 2.098 tấn, giảm 2,45%; thủy sản khác đạt 7.047,6 tấn, tăng 5,17%.
Khu vực nuôi lồng bè với các đối tượng nuôi chính có giá trị kinh tế cao như cá song, cá giò, cá sủ…gần đây có xu hướng thu hẹp qui mô do ảnh hưởng đến môi trường biển tại quần đảo Cát Bà; sản lượng thu hoạch 4 tháng/2019 ước đạt 782,5 tấn, giảm 9,44% so với cùng kỳ năm trước.
Khu vực nuôi nước ngọt, các ao đầm cơ bản đã cải tạo xong; tiếp tục thu hoạch sản phẩm xuất bán đồng thời thả giống các đối tượng cá truyền thống: cá rô phi, cá vược… Diện tích nuôi nước lợ khu vực trồng rong câu, nuôi quảng canh cải tiến thả giống các đối tượng tôm sú, cua biển, cá đối… khi thời tiết thuận lợi, thu hoạch sản phẩm nuôi thương phẩm qua đông còn lại. Khu vực nuôi lồng bè, nhuyễn thể tiếp tục thu hoạch sản phẩm đạt kích cỡ thương phẩm phục vụ nhu cầu tiêu thụ tại Hải Phòng và các tỉnh lân cận; tiến hành xuống giống cho vụ nuôi mới 2019.
Khu vực sản xuất - dịch vụ giống thủy sản đang bước vào thời vụ chính, tập trung nhân lực, vật lực đáp ứng nhu cầu thả giống của các hộ nuôi. Sản lượng giống thủy sản sản xuất 4 tháng/2019 ước đạt 931,1 triệu con, tăng 0,62% so với cùng kỳ năm trước.
* Khai thác 
Sản lượng khai thác thủy sản tháng 4/2018 ước đạt 8.566,9 tấn, tăng 3,91% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 4.800 tấn, tăng 5,88%; tôm các loại đạt 657,4 tấn, tăng 1,55%; thủy sản khác đạt 3.109,5 tấn, tăng 1,49%. Sản lượng khai thác thủy sản ước 4 tháng/2019 đạt 30.953,8 tấn, tăng 2,61% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 17.023,8 tấn, tăng 3,91%; tôm các loại đạt 2.582,2 tấn, tăng 0,46%; thủy sản khác đạt 11.347,8 tấn, tăng 1,21%.
Ngay thời điểm đầu tháng 4/2019, thành phố đã tổ chức lễ mở biển cho tàu cá của ngư dân các địa phương Đồ Sơn, Cát Hải, Thủy Nguyên... đi khai thác vụ cá Nam 2019. Ngư trường khai thác chính của tàu cá là Vịnh Bắc Bộ, khu vực phía Nam, Bắc và Tây đảo Bạch Long Vĩ; đối tượng khai thác là cá nổi nhỏ (nục, ruội, mực) và một số loại cá đáy (mực nang, cá bơn, cá hồng…). Thời gian qua xuất hiện nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế  như: mực ống, cá song, mú lang, bạc má, cá nục, cá trích… Các tàu hoạt động quanh khu vực này khai thác đạt doanh thu tăng so với tháng trước, nhất là các tàu làm nghề chụp mực. 
Số lượng tàu cá của Hải Phòng không thường xuyên neo đậu tại các cảng cá, bến cá trên địa bàn thành phố, nên việc tuyên truyền, phổ biến các quy định về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) cho ngư dân của địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay thị trường tiêu thụ hải sản ổn định, giá hải sản tương đối cao; giá nhiên liệu cho hoạt động khai thác tương đối ổn định đã tạo động lực cho ngư dân bám biển. Bên cạnh những thuận lợi nghề khai thác biển hiện nay còn gặp nhiều khó khăn nhất là tình trạng thiếu lao động vẫn diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương trên địa bàn thành phố, nhiều chủ tàu đã phải chậm chuyến biển do không tìm đủ lượng lao động cần thiết để tham gia đánh bắt trên biển.
3. Đầu tư xây dựng
Dự tính vốn đầu tư thực hiện tháng 4/2019 là 580,6 tỷ đồng, tăng 7,13% so cùng kỳ. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước 506,8 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 4,71%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước 58,1 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 34,05%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước 15,7 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 7,48%;
Dự tính vốn đầu tư thực hiện 4 tháng/2019 là 1.800 tỷ đồng, tăng 5,82% so cùng kỳ. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước 1.549,4 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 3,31%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước 187,6 tỷ đồng, tăng so cùng kỳ 29,73%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước 63 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 11,24%;
Các tháng đầu năm 2019 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tăng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của các tháng đầu năm 2018, do các tháng đầu năm 2019 thành phố tập trung vào thực hiện công tác giải phóng mặt bằng đảm bảo cho các dự án thực hiện đúng tiến độ, điển hình là các dự án trọng điểm như: dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị mới Bắc Sông Cấm; dự án đầu tư xây dựng trục đường Hồ Sen- Cầu Rào 2 đoạn từ nút giao Nguyễn Văn Linh đến ngã ba đường Chợ Con; dự án xây dựng nút giao Nam Cầu Bính; dự án phát triển giao thông đô thị thành phố Hải Phòng; dự án thoát nước mưa, nước thải và quản lý chất thải rắn thành phố Hải Phòng (giai đoạn I);…
Tình hình thực hiện một số dự án lớn đến thời điểm hiện nay: 
- Dự án cầu Hoàng Văn Thụ ước thực hiện trên 94% khối lượng công việc, tương đương 2.600 tỷ đồng. Do vướng mắc trong vấn đề giải phóng mặt bằng nên dự án phải xin lùi thời gian hoàn thành sang quý III/2019. Đối với các gói thầu xây lắp công trình hạ tầng kỹ thuật khu đô thị Bắc sông Cấm bao gồm 37 gói thầu trong đó có 6 gói thầu cơ bản đã hoàn thành, các gói thầu còn lại đang được các nhà thầu tích cực huy động nhân lực, máy móc, thiết bị thi công cả ngày lẫn đêm đảm bảo tiến độ. 
-  Dự án cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường có nhiều gói thầu bị chậm tiến độ do nhu cầu về vốn chưa được đáp ứng kịp thời. Gói thầu A2 xây dựng tuyến cống thoát nước thải: tuyến 2, tuyến 3 và kênh An Kim Hải, tuyến cống hộp Phương Lưu đạt 90% khối lượng thực hiện. Gói thầu xây dựng nhà máy xử lý nước thải Vĩnh Niệm ước tính đến tháng 4/2019 khối lượng thực tế thi công tại hiện trường đạt trên 95%.
- Dự án phát triển giao thông đô thị Hải Phòng với tổng mức đầu tư 5.342 tỷ đồng với thời gian thực hiện dự án là 2011-2020. Do gặp vướng mắc trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để thực hiện các gói thầu thuộc hợp phần A (xây lắp tuyến đường trục đô thị) làm ảnh hưởng chung đến toàn dự án nên nhiều gói thầu bị chậm tiến độ. Hiện nay tỷ lệ bàn giao mặt bằng toàn dự án đạt khoảng 98%. Các gói thầu xây lắp tuyến đường trục tiến độ trung bình đạt 72,9% khối lượng hợp đồng. 
- Dự án đầu tư xây dựng trục đường Hồ Sen - Cầu Rào 2, đoạn từ nút giao Nguyễn Văn Linh đến ngã 3 đường chợ Con gồm 2 công trình: công trình nút giao Nguyễn Văn Linh (bao gồm cầu vượt và vòng xuyến nút giao) hiện đã xong phần cầu và thông cầu vào đầu tháng 3/2019; phần nút giao vòng xuyến sẽ hoàn thành vào tháng 5/2019 và công trình tuyến đường trục từ nút giao Nguyễn Văn Linh đến ngã 3 đường Chợ Con và cầu qua Hồ Sen (chiều dài tuyến 1.590,87m) hiện đang tiến hành giải phóng mặt bằng và dự kiến thi công từ tháng 5/2019 và hoàn thành trong năm 2020.
- Dự án xây dựng Nút giao thông Nam cầu Bính: tính đến 16/4/2019 dự án đã thực hiện được 22% khối lượng công việc, trong đó công tác giải phóng mặt bằng đạt 40%. Năm 2019 dự án được bố trí 600 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách thành phố. Đây là công trình đảm nhận chức năng quan trọng về giao thông đối nội và đối ngoại, giúp giảm ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông, được đánh giá là nút giao ngã 6 ở cửa ngõ vào trung tâm thành phố.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/4/2019 Hải Phòng có 636 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư  :   17.147,5 triệu USD
Vốn điều lệ          :     5.925,5 triệu USD     
Việt Nam góp      :        241,1  triệu USD     
Nước ngoài góp   :     5.684,4 triệu USD
Từ đầu năm đến 15/4/2019, toàn thành phố có 21 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư 223,19 triệu USD và 12 dự án điều chỉnh tăng vốn với số vốn tăng là 38,2 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. 
Từ nửa cuối tháng 3 đến 15/4/2019 có 3 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 43,78 triệu USD. Điều chỉnh tăng vốn có 3 dự án với số vốn tăng là 12,50 triệu USD. Đối với dự án cấp mới, đáng kể nhất là dự án nhà ở Việt Nhân tại lô đất S2–R1–Công ty TNHH Vsip Hải Phòng với số vốn đăng ký mới là 28 triệu USD.
Có 7 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động trong đó 5 dự án do hết thời hạn, 1 dự án thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư do vi phạm pháp luật về đầu tư, 1 dự án nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động trước thời hạn. Tất cả dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động đều nằm ngoài khu công nghiệp. 
Ước thực hiện vốn đầu tư đạt 41,6%.
4. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 năm 2019 ước đạt 10.810,49 tỷ đồng, tăng 2,02% so với tháng trước và tăng 14,47% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 42.402,72 tỷ đồng, tăng 14,27% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2019 có xu hướng tăng so với tháng trước do trong tháng 4 có 2 kỳ nghỉ lễ lớn là Giổ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch) và kỳ nghỉ 30/4-01/5 với tổng thời gian nghỉ là 8 ngày nên nhiều trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng trên địa bàn thành phố tổ chức các chương trình khuyến mãi thu hút người dân tham quan, mua sắm, ăn uống...
* Chia theo khu vực kinh tế 
- Khu vực kinh tế nhà nước ước đạt 255,27 tỷ đồng, tăng 4,17% so với tháng trước, giảm 1,61% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2019 ước đạt 1.032,32 tỷ đồng, giảm 0,57% so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 10.077,52 tỷ đồng, tăng 1,94% so với tháng trước và tăng 15,08% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2019 ước đạt 39.416,97 tỷ đồng, tăng 14,86% so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 477,71 tỷ đồng, tăng 2,46% so với tháng trước, tăng 11,69% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2018 ước đạt 1.953,43 tỷ đồng, tăng 11,49% so với cùng kỳ năm trước.
* Chia theo ngành hoạt động
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 4 năm 2019 ước đạt 8.316,12 tỷ đồng, tăng 0,74% so với tháng trước, tăng 14,62% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2019, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 33.319,73 tỷ đồng, tăng 14,37% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 4/2019 hoạt động thương mại và dịch vụ ước đạt mức tăng khá. Một số ngành có doanh thu tháng 4/2019 ước tính tăng hơn so với tháng trước như lương thực, thực phẩm tăng 0,46%; đồ dùng, trang thiết bị gia đình tăng 0,46%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 2,70%; xăng dầu tăng 2,14%; nhiên liệu khác tăng 0,38%. Hai ngành hàng xăng dầu và nhiên liệu khác ước tính doanh thu tăng cao do đây là những mặt hàng thiết yếu được tiêu dùng hàng ngày với khối lượng tiêu thụ lớn. Bên cạnh đó, từ ngày 01/4/2019, giá  gas được điều chỉnh tăng theo giá gas thế giới, mức tăng cụ thể là 7.000 đồng/bình 12 kg, tương đương với mức tăng 583 đồng/kg so với tháng 3/2019; giá xăng dầu cũng được điều chỉnh tăng vào ngày 02/4 với mức tăng cụ thể như sau: xăng Ron95-IV tăng 1.490 đồng/lít, xăng E5 Ron92 tăng 1.370 đồng/lít, dầu diesel 0.05S tăng 1.220 đồng/lít. Vào mùa xây dựng nên nhu cầu về vật liệu xây dựng tăng cao, cộng thêm giá vật liệu xây dựng tăng trong thời gian gần đây do giá nguyên vật liệu đầu vào tăng nên doanh thu ngành hàng gỗ và vật liệu xây dựng ước tính tăng cao trong tháng này;
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 14,37% so với cùng kỳ. Một số nhóm ngành hàng có mức tăng trưởng cao như: lương thực, thực phẩm tăng 14,14%; hàng may mặc tăng 13,39%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 13,93%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,47%; phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) tăng 11,35%; xăng dầu tăng 15,71%; nhiên liệu khác tăng 16,07%... 
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 4 năm 2019 ước đạt 131 tỷ đồng, tăng 8,3% so với tháng trước và tăng 11,26% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2019 doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 466,6 tỷ đồng, tăng 9,37% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 4 năm 2019 ước đạt 1.457 tỷ đồng, tăng 6,41% so với tháng trước và tăng 14,23% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2019 doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 5.142,6 tỷ đồng, tăng 13,90% so với cùng kỳ năm trước. 
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 4 năm 2019 ước đạt 16,2 tỷ đồng, tăng 6,36% so với tháng trước, tăng 6,25% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2019 doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 60,65 tỷ đồng, tăng 4,31% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành tăng do tháng 4/2019 thành phố tổ chức Lễ hội truyền thống huyện đảo Cát Hải diễn ra từ ngày 30/3 đến hết ngày 01/4/2019 đồng thời người dân được nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương và 30/4-01/5 nên nhu cầu về các dịch vụ này tăng nhiều so với tháng 3/2019.
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 4 năm 2019 ước đạt 890,47 tỷ đồng, tăng 6,39% so với tháng trước, tăng 14,13% so với cùng kỳ năm trước; 4 tháng/2019, doanh thu dịch vụ khác ước đạt 3.413,16 tỷ đồng, tăng 14,77% so với cùng kỳ năm trước;
Tháng 4/2019, các dịch vụ đều có xu hướng tăng hơn so với tháng trước như: dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 4,25%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 3,5%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 2,63%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 3,44%... 
5. Hoạt động lưu trú và lữ hành    
Tổng lượt khách tháng 4/2019 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 651,1 nghìn lượt, tăng 10,48% so với tháng trước và tăng 6,86% so với cùng tháng năm 2018; trong đó khách quốc tế đạt 70,1 nghìn lượt, tăng 4,84% so với tháng trước và tăng 13,65% so với cùng tháng năm trước.
Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2019, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 2.280,3 nghìn lượt, tăng 7,78% so với cùng kỳ năm trước trong đó khách quốc tế đạt 271,4 nghìn lượt, tăng 11,71% so với cùng kỳ năm trước.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành tháng 4 năm 2019 ước đạt 9,4 nghìn lượt, tăng 4,89% so với tháng trước, tăng 2,53% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 4 tháng/2019, lượt khách lữ hành ước đạt 34,7 nghìn lượt, tăng 4,42% so với cùng kỳ năm trước. 
Trong tháng 4/2019, thành phố tổ chức Lễ hội truyền thống huyện đảo Cát Hải diễn ra từ ngày 30-3 đến hết ngày 01/4/2019 với các hoạt động đặc sắc như đua thuyền rồng, kéo co, múa rồng trên biển…đã thu hút được đông đảo khách thập phương đến với Hải Phòng. Ngoài ra trong tháng 4 người dân có 2 kỳ nghỉ lễ dài ngày nên nhu cầu về ăn uống, lưu  trú và lữ hành tăng cao.
6. Vận tải hàng hóa và hành khách
6.1. Vận tải hàng hoá

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 4 năm 2019 ước đạt 16,1 triệu tấn, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 12,28% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 4 tháng/2019 đạt 63,7 triệu tấn, tăng 12,32% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 4 năm 2019 ước đạt 7.923,8 triệu tấn.km, tăng 0,26% so với tháng trước và tăng 1,3% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 4 tháng/2019 đạt 31.269,6 triệu tấn, tăng 1,02% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển và luân chuyển tháng 4/2019 tăng so với tháng trước, tăng chủ yếu ở khối đường bộ do các doanh nghiệp vận tải đường bộ hoạt động ổn định, tiếp tục nhận được nhiều đơn hàng hơn tháng trước.
6.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 4 năm 2019 ước đạt 5,7 triệu lượt, tăng 1,91% so với tháng trước, tăng 11,68% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 4 tháng/2019 đạt 22,5 triệu lượt, tăng 15,31% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 4 năm 2019 đạt 227,7 triệu Hk.km, tăng 1,68% so với tháng trước và tăng 10,49% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 4 tháng/2019 đạt 909,3 triệu Hk.km, tăng 16,76% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2019 tăng so cùng kỳ năm trước, do trong tháng 4 có 2 kỳ nghỉ lễ dài với tổng số ngày nghỉ lên tới 8 ngày, nhiều hơn so với năm trước nên nhu cầu khách đi lại bằng xe ô tô khách, taxi tăng cao. Mặt khác, tháng 4/2019 cũng là thời điểm bắt đầu vào mùa du lịch biển ở Hải Phòng nên khối lượng khách đường biển tăng mạnh.
6.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Dịch vụ kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 4 năm 2019 ước đạt 2.461,5 tỷ đồng, tăng 1,08% so với tháng trước và tăng 16,46% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 4 tháng/2019 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 9.707,8 tỷ đồng, tăng 15,71% so với cùng kỳ năm trước.
6.4. Sân bay Cát Bi
Tháng 4 năm 2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 25 tỷ đồng, tăng 5,40% so với tháng trước; tăng 21,60% so với cùng tháng năm 2018; 4 tháng/2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 92,4 tỷ đồng, tăng 29,18% so với cùng kỳ năm trước. 
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 4 năm 2019 ước đạt 1.340 chuyến, tăng 5,85% so với tháng 3/2019, tăng 14,53% so với cùng tháng năm 2018; 4 tháng/2019 số lần máy bay hạ, cất cánh đạt 5.234 chuyến, tăng 12,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chuyến bay ngoài nước tháng 4/2019 ước đạt 110 chuyến, với ước tính trên 13 nghìn lượt hành khách thông qua. 
Tổng số hành khách tháng 4 năm 2019 ước đạt 215 nghìn lượt người, tăng 6,28% so với tháng 3/2019, tăng 9,84% so với cùng tháng năm 2018; 4 tháng/2019 tổng số hành khách ước đạt 798,9 nghìn lượt, tăng 7,42% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 4 tuy chưa vào mùa du lịch chính trong năm nhưng ước tính lượng hành khách có xu hướng tăng dần, trong đó chủ yếu là tăng ở lượng khách du lịch do giá vé máy bay cũng như giá vé ở các khu du lịch đang khuyến mại giảm giá trước hè.
Tổng số hàng hóa tháng 4 năm 2019 ước đạt 2.050 tấn, tăng 5,29% so với tháng 3/2019, tăng 45,39% so với cùng tháng năm 2018; 4 tháng/2019 tổng số hàng hóa thông qua đạt 6.871 tấn, tăng 39,03% so với cùng kỳ năm trước. Hàng hóa đến và đi hiện nay đa dạng nhiều chủng loại như hải sản, hàng thực phẩm, bánh kẹo, quần áo và hàng tiêu dùng khác.
7. Hàng hoá thông qua cảng
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 4 năm 2019 ước đạt 9.454,8 nghìn TTQ, tăng 1,96% so với tháng trước và tăng 4,81% so với cùng kỳ năm trước. 
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 3.623 nghìn TTQ, giảm 0,2% so với tháng trước, tăng 10,65% so với cùng kỳ, trong đó: 
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước Trung ương ước đạt 3.615 nghìn TTQ, giảm 0,16% so với tháng trước, tăng 10,68% so với cùng kỳ.
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương ước đạt 8 nghìn TTQ, giảm 14,94% so với tháng trước, giảm 1,6% so với cùng kỳ.
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 5.831,8 nghìn TTQ, tăng 3,35% so với tháng trước và tăng 1,48% so với cùng kỳ năm 2018.
Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2019 sản lượng hàng hóa thông qua cảng trên địa bàn thành phố đạt 35.453 nghìn TTQ, tăng 5,84% so với cùng kỳ năm 2018.
* Doanh thu cảng biển tháng 4 năm 2019 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 460,4 tỷ đồng, tăng 20,14% so với cùng kỳ. 
Hai tháng đầu năm 2019 sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển trên địa bàn thành phố ít nhộn nhịp hơn do thời điểm sau Tết hàng hóa không nhiều. Từ tháng 3/2019 đến nay hàng hóa tại các cảng đã bắt đầu sôi động trở lại. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 2019, các cảng đã liên tục đón tàu của các hãng tàu lớn trên thế giới vào làm hàng. Ngày 31/3, Cảng Hải Phòng đón tàu FESCO TRADER trọng tải 15.213 tấn; trong thời gian tới, tàu sẽ cập Cảng Tân Vũ - Cảng Hải Phòng làm hàng với tần suất 1 chuyến/tuần. Ngày 10/4, Cảng Container quốc tế đã đón thành công tàu mẹ Northern Jaguar của hãng tàu Ocean Network Express (ONE) với sức chở 8.814 TEU. Đây là dấu mốc cho việc phát triển dịch vụ vận chuyển container bằng đường biển xuyên đại dương trực tiếp từ cảng HICT nói riêng và  khu vực miền Bắc Việt Nam nói chung đến các cảng Châu Mỹ và Châu Âu mà không cần thông qua cảng trung chuyển nước ngoài. Việc triển khai tuyến mới này làm giảm đáng kể chi phí logistics, tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam, thúc đẩy thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua đó, ngày càng khẳng định thế mạnh, sự vượt trội về cơ sở hạ tầng, thiết bị, công nghệ và chất lượng dịch vụ của các cảng trên địa bàn thành phố.
8. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 4 năm 2019 tăng 0,13% so với tháng trước, tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,69% so với tháng 12/2018. CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,47% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 7 nhóm chỉ số giá tháng 4/2019 tăng so với tháng trước với mức tăng như sau: nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,34%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,03%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; nhóm giao thông tăng 3,76%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,10% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,16%. 02 nhóm có chỉ số giá giảm là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,60%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,10%. 02 nhóm còn lại có chỉ số giá không đổi là nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.  
Nguyên nhân chính làm CPI tháng 4/2019 tăng so với tháng trước là giá xăng dầu tăng 9,88% làm cho CPI chung tăng 0,31%; giá gas tăng 1,90% làm CPI chung tăng 0,02%... 
Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 4/2019 giảm 1,10% so với tháng trước; giá gạo và các loại ngũ cốc khác như khoai lang, ngô đều giảm giá do nguồn cung thóc gạo tương đối ổn định, sản lượng trồng và thu hoạch lớn. Chỉ số giá thực phẩm giảm 0,87% so với tháng trước do giá thịt gia súc tươi sống giảm 2,41%, dịch bệnh tả lợn châu Phi vẫn chưa được kiểm soát hoàn toàn nên người tiêu dùng giảm tiêu thụ các mặt hàng thịt lợn, chuyển sang các mặt hàng thủy hải sản và các mặt hàng khác; giá rau tươi, khô và chế biến giảm 0,35% do thời tiết thuận lợi nên rau phát triển tốt, lượng rau cung cấp ra thị trường dồi dào.
Chỉ số nhóm giao thông tăng 3,76% so với tháng trước chủ yếu do giá xăng dầu được điều chỉnh tăng cao 2 lần trong tháng vào các ngày 02/4 và 17/4 với tổng mức tăng của xăng RON95-IV là 2.690 đồng/lít, xăng E5-RON 92 là 2.490 đồng/lít; dầu diesel 0,05S-II là 1.520 đồng/lít.
* Chỉ số giá vàng 99,99% và Đô la Mỹ: 
- Chỉ số giá vàng tháng 4/2019 giảm 0,65% so với tháng trước, giảm 1,10% so với cùng tháng năm 2018, tăng 3,66% so với tháng 12 năm trước. Giá vàng bình quân tháng 4/2019 dao động ở mức 3,679 triệu đồng/chỉ, giảm 24.000 đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2019 giảm 0,01% so với tháng trước, tăng 1,87% so với cùng tháng năm 2018, giảm 0,44% so với tháng 12 năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 4/2019 dao động ở mức 23.253 đồng/USD, giảm 2 đồng/USD.
Tải về biểu số liệu Chỉ số giá tiêu dùng CPI
9. Hoạt động tài chính, ngân hàng 
9.1. Tài chính

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 4 năm 2019 ước đạt 7.401,7 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa đạt 2.301,7 tỷ đồng; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 5.000 tỷ đồng. Ước 4 tháng/2019 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 28.072,3 tỷ đồng, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu  nội địa đạt 8.523,6 tỷ đồng, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 19.298,7 tỷ đồng, tăng 54% so với cùng kỳ năm trước.
Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 977,2 tỷ đồng, tăng 0,4% so cùng kỳ năm trước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.862,3 tỷ đồng, tăng 88% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 1.505,6 tỷ đồng, tăng 10,8% so cùng kỳ năm trước... 
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 4 năm 2019 ước đạt 1.885,7 tỷ đồng; ước 4 tháng/2019 đạt 5.498,1 tỷ đồng, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 2.211,2 tỷ đồng, tăng 69,7% so với cùng kỳ năm trước, chi thường xuyên đạt 2.936,8 tỷ đồng, tăng 13,9% so cùng kỳ năm trước, trong chi thường xuyên chi cho hoạt động kinh tế đạt 342,6 tỷ đồng; chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề đạt 1.019,8 tỷ đồng...
9.2. Ngân hàng
* Công tác huy động vốn:
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến hết tháng 4 năm 2019 đạt 191.016 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, tăng 3,66% so với cuối năm 2018.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 180.288 tỷ đồng, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 94,38%; ngoại tệ ước đạt 10.728 tỷ đồng, tăng 0,77% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,62%. 
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 135.980 tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 71,19%; tiền gửi thanh toán ước đạt 51.579 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 27%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 3.457 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,81%.
* Công tác tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế ước thực hiện đến hết tháng 4 năm 2019 đạt 116.796 tỷ đồng, tăng 12,99% so với cùng kỳ năm trước, tăng 3,79% so với năm 2018. 
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND đạt 109.882 tỷ đồng, tăng 15,74% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 94,08%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 6.914 tỷ đồng, giảm 17,97% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,92%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 51.800 tỷ đồng, tăng 10,07% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 44,35%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 64.996 tỷ đồng, tăng 15,44% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 55,65%. 
10. Xuất nhập khẩu hàng hóa
10.1. Xuất khẩu hàng hoá

Kim ngạch xuất khẩu tháng 4 năm 2019 ước đạt 885,4 triệu USD, tăng 4,93% so với tháng trước; trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 202,7 triệu USD, tăng 3,61%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 682,7 triệu USD, tăng 5,33%. 
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 4 năm 2019 tăng 26,82%, trong đó: khu vực kinh tế trong nước tăng 22,21%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 28,25%.
Tính chung 4 tháng năm 2019, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 3.144,5 triệu USD, tăng 25,37% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 752,4 triệu USD, tăng 19,78%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2.392,1 triệu USD, tăng 27,24%.
Một số mặt hàng xuất khẩu trong 4 tháng năm 2019 có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản phẩm Plastic đạt 161 triệu USD, tăng 6%; hàng dệt may đạt 187,7 triệu USD, tăng 35,76%; giày dép đạt 519,6 triệu USD, tăng 6,97%; hàng điện tử đạt 183,5 triệu USD, tăng 44,92%; dây điện và cáp điện đạt 245,5 triệu USD, tăng 20,04%...
10.2. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch nhập khẩu tháng 4 ước đạt 780,6 triệu USD, tăng 4,06% so với tháng trước; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 183,5 triệu USD, tăng 3,20%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 597,1 triệu USD, tăng 4,33%. 
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 4 năm 2019 tăng 23,48%; trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 20,48%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,43%.
Tính chung 4 tháng năm 2019, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 2.913,8 triệu USD, tăng 20,14% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 715,5 triệu USD, tăng 16,48%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2.198,2 triệu USD, tăng 21,38%. 
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu trong 4 tháng năm 2019 tăng cao hơn so với cùng kỳ: Hóa chất đạt 36,3 triệu USD, tăng 25,02%; phụ liệu hàng may mặc đạt 88,5 triệu USD, tăng 24,31%; phụ liệu giày dép đạt 374 triệu USD, tăng 17,21%; vải may mặc đạt 47,8 triệu USD, tăng 17,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 408,2 triệu USD, tăng 22,38%...
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội

* Công tác Lao động, việc làm
Tháng 4 năm 2019, thành phố đã tổ chức 03 phiên giao dịch việc làm, với sự tham gia tuyển dụng của 102 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 6.023 lượt lao động; ước cấp mới 60 giấy phép lao động, cấp lại 40 giấy phép lao động, miễn cấp 20 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, sàn giao dịch việc làm thành phố tổ chức được 12 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng của 329 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 15.794 lượt lao động. Cung lao động tại sàn đạt 23.097 lượt người, gấp trên 1,46 lần nhu cầu tuyển dụng.
Số lượng đăng ký bảo hiểm thất nghiệp trong 4 tháng đầu năm 2019 là 3.403 người (giảm 14,19% so với cùng kỳ), thành phố đã giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 3.309 người, với kinh phí hơn 57 tỷ đồng (tăng 18,07% so với cùng kỳ), tiến hành hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 40 doanh nghiệp (bằng 111% so với cùng kỳ); hướng dẫn, thẩm định và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 35 doanh nghiệp (bằng 103% so với cùng kỳ). Nhìn chung, sàn giao dịch việc làm và hệ thống thông tin điện tử về thị trường lao động của thành phố hoạt động hiệu quả, tiếp tục phát huy vai trò kết nối cung - cầu lao động trên thị trường, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm có xu hướng được cải thiện. 
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 03 cuộc đình công với 1.190 người tham gia (tăng 01 cuộc và giảm 310 lao động so với cùng kỳ); xảy ra 04 vụ tai nạn làm chết 04 người (giảm 02 vụ và 02 người chết so với cùng kỳ).
* Công tác dạy nghề 
Tháng 4 năm 2019, thành phố hướng dẫn triển khai kế hoạch đào tạo nghề cho lao động khu vực nông thôn năm 2019; xây dựng kế hoạch tổ chức Hội thi thiết bị đào tạo tự làm cấp thành phố năm 2019; tiến hành thẩm định 15 lượt chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp cho 01 trường cao đẳng và 01 trường trung cấp trên địa bàn. 
Trong 4 tháng đầu năm 2019, thành phố đẩy mạnh công tác hướng dẫn cho các đơn vị đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp; đã thẩm định hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đăng ký cho 02 đơn vị; tích cực phối hợp với Viện Khoa học giáo dục nghề nghiệp và Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp xây dựng Dự án Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thành phố Hải Phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Công tác tuyển sinh đào tạo nghề nghiệp trên địa bàn thành phố ước thực hiện đạt 13.000 lượt sinh viên và người lao động, đạt 25,5% kế hoạch năm và bằng 98% so với cùng kỳ năm 2018.  
* Công tác người có công
Tính đến tháng 4 năm 2019, thành phố đã tiếp nhận và tiến hành giải quyết theo đúng chế độ cho các đối tượng chính sách trên địa bàn như sau: trợ cấp hàng tháng 17 người; trợ cấp thờ cúng liệt sĩ 144 người; quyết định chế độ mai táng phí và trợ cấp 1 lần đối với 842 trường hợp; xác nhận miễn giảm tiền sử dụng đất theo Quyết định 118/QĐ-TTg 20 trường hợp; quyết định thực hiện chế độ ưu đãi trong giáo dục và đào tạo đối với người có công và con đẻ của họ cho 01 đối tượng; cấp sổ theo dõi việc cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình đối với người có công cho 01 đối tượng; quyết định điều dưỡng phục hồi sức khỏe đối với 4.694 người có công và thân nhân liệt sĩ với kinh phí là 6.768 triệu đồng; tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý 345 trường hợp; công nhận, đề nghị công nhận 220 người có công. 
Bên cạnh đó, thành phố thực hiện mua thẻ bảo hiểm y tế bằng nguồn ngân sách Trung ương và thành phố cho khoảng 81.000 người có công và thân nhân.
* Công tác giảm nghèo - Bảo trợ xã hội
Tháng 4/2019, tiếp nhận 02 đối tượng vào các Trung tâm bảo trợ xã hội, tập trung được 48 lượt người lang thang trên địa bàn thành phố. Tiến hành xây dựng Đề cương chi tiết Đề án hỗ trợ giảm nghèo bền vững giai đoạn 2019-2025. 
Trong 4 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tiếp nhận 15 đối tượng đưa vào điều trị, chăm sóc và nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội, tập trung được 229 lượt người người lang thang trên địa bàn (giảm 83 lượt người, tương ứng giảm 26,6% so với cùng kỳ). Bên cạnh đó, thành phố đã thực hiện chi trả trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng và các chế độ hỗ trợ kinh phí đối với 74.077 người (tăng 3.438 người, tương ứng tăng 4,9% so với cùng kỳ) đảm bảo kịp thời, đầy đủ và đúng chế độ chính sách. Công nhận 04 cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật.
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Tháng 4/2019 tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại cơ sở cai nghiện ma túy cho 1.459 lượt người, cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 42 người; đoàn kiểm tra của thành phố kết hợp với các quận, huyện đã kiểm tra 33 buổi tại 130 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn, quán karaoke...
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện cho 1.880 lượt người (bằng 103% so với cùng kỳ), cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 94 người (bằng 71% so với cùng kỳ). Phối hợp với công an quận Ngô Quyền tiến hành 31 đợt xét nghiệm tìm chất ma túy cho 142 đối tượng bị bắt giữ, kết quả có 44 trường hợp dương tính với ma túy; tăng cường chỉ đạo các đoàn kiểm tra liên ngành, kết quả đã tiến hành kiểm tra 121 buổi tại 478 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn...
2. Giáo dục - Đào tạo
Tháng 4/2019, thành phố tăng cường kiểm tra, giám sát tại các trường Trung học phổ thông và các Trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn về công tác ôn thi, chuẩn bị cho kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia; hướng dẫn việc xét tốt nghiệp Trung học cơ sở năm học 2018 - 2019 tại các quận/huyện.
Trong 4 tháng đầu năm 2019, thành phố tổ chức thành công kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 9 năm học 2018-2019 đảm bảo nghiêm túc, công bằng, đúng quy chế và đã công bố kết quả tới các thí sinh dự thi. Bên cạnh đó, các đơn vị thuộc ngành Giáo dục trên địa bàn thành phố tiếp tục tích cực triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Tại cuộc thi học sinh giỏi Toán Hà Nội mở rộng, Hải Phòng có hai đội Toán trung học cơ sở và trung học phổ thông đã đạt thành tích xuất sắc, là đội vô địch của cuộc thi với 14 huy chương các loại (05 huy chương vàng, 04 huy chương bạc và 05 huy chương đồng). Tại kỳ thi học sinh giỏi các trường chuyên, Hải Phòng xếp thứ nhất về số lượng giải thưởng với 59 huy chương các loại (18 huy chương vàng, 22 huy chương bạc, 19 huy chương đồng) và 10 khuyến khích.
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm 
* Công tác y tế dự phòng
Tháng 4/2019, ngành Y tế chỉ đạo các đơn vị trên địa bàn thành phố chủ động, đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh mùa xuân hè; tích cực giám sát tại các cơ sở y tế, thực hiện giám sát 39 lượt tại các bệnh viện tuyến thành phố; tiếp tục theo dõi các bệnh sốt phát ban nghi sởi/rubella, viêm não Nhật Bản, sốt xuất huyết…
Tăng cường việc phối hợp chặt chẽ giữa Sở Y tế với Chi cục Thú y - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong phát hiện sớm dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, đặc biệt chú trọng tuyên truyền sâu rộng, khuyến cáo các biện pháp phòng chống dịch tả lợn Châu Phi, bệnh sán lợn để chủ động phòng ngừa, xử lý dịch. 
Trong 4 tháng đầu năm 2019, thành phố tích cực chỉ đạo, tổ chức tập huấn, khám sàng lọc, xử trí phản ứng sau tiêm phòng vắc xin ComBE Five nhằm đảm bảo an toàn trong tiêm chủng hàng tháng. Kết quả triển khai vắc xin ComBE Five: tiêm được 2.991 trẻ, có 394 trường hợp có phản ứng sau tiêm, đều đã được theo dõi và xử lý ổn định. Công tác khám chữa bệnh được chú trọng, thực hiện khám chữa bệnh thông thường gắn với phát triển kỹ thuật y tế cao, chuyên sâu tại các bệnh viện tuyến thành phố, đẩy mạnh giám sát chất lượng khám chữa bệnh, kiểm soát nhiễm khuẩn, kiểm soát kê đơn sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. 
* Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong tháng 4/2019, Ban Chỉ đạo liên ngành về an toàn thực phẩm thành phố đã tổ chức lễ phát động “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2019, đồng thời tích cực triển khai thực hiện theo kế hoạch số 64/KH-ATTP ngày 29/3/2019 về việc cấp phát tài liệu tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2019 trên địa bàn thành phố. Toàn ngành Y tế của thành phố tiếp tục chú trọng thực hiện có hiệu quả, đảm bảo đúng lộ trình Nghị quyết 17 của HĐND thành phố về “Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác đảm bảo an toàn thực phẩm giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030”.
Trong 4 tháng đầu năm 2019, đã có 03 Đoàn kiểm tra liên ngành về an toàn thực phẩm của thành phố tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định trong đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Trên cơ sở đó, thành phố đã thẩm định, đánh giá và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm cho 15 cơ sở, công nhận 10 cơ sở cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm. Nhìn chung, công tác an toàn thực phẩm được bảo đảm, không để xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng nào trên địa bàn thành phố.
* Công tác phòng chống HIV/AIDS
Tính đến tháng 4/2019, trên địa bàn toàn thành phố có tổng số cơ sở điều trị Methadone là 18 cơ sở, tổng số bệnh nhân đang điều trị là 3.839 người, số bệnh nhân đạt liều duy trì là 3.586 người, trong đó có 253 trường hợp đang dò liều. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục tăng cường công tác phòng chống HIV/AIDS, hướng tới thực hiện Kế hoạch 90-90-90 và chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 theo đúng cam kết, lộ trình đã đề ra.
4. Văn hóa - Thể thao
* Công tác văn hóa
Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tiếp tục được quan tâm, hệ thống thiết chế văn hóa các cấp từng bước được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa ngày càng phong phú của nhân dân. 
Trong 4 tháng đầu năm 2019, thành phố tăng cường chỉ đạo các đơn vị chức năng tổ chức thành công và đa dạng hóa các chương trình biểu diễn nghệ thuật cuối tuần tại Nhà Kèn - Vườn hoa Nguyễn Du; tích cực triển khai các công việc chuẩn bị tổ chức Lễ kỷ niệm 64 năm ngày Giải phóng Hải Phòng và Lễ hội Hoa Phượng đỏ - Hải Phòng năm 2019; xây dựng kế hoạch tổ chức cuộc thi sáng tác phù điêu, tượng công viên để tham gia trưng bày vào dịp Lễ hội Hoa Phượng đỏ. Bên cạnh đó, thành phố chú trọng đẩy mạnh thực hiện hiệu quả công tác phối hợp thẩm định các chương trình biểu diễn nghệ thuật, thẩm định văn hóa phẩm xuất, nhập khẩu không nhằm mục đích kinh doanh, quản lý lễ hội, quản lý di sản và di tích trên địa bàn.
* Công tác thể thao
 Tổ chức họp báo triển khai kế hoạch tổ chức liên hoan du lịch “Đồ Sơn - Miền di sản” năm 2019. Theo đó, liên hoan du lịch năm nay gồm 02 hoạt động chính là: Giải bóng chuyền bãi biển nữ Hải Phòng mở rộng tranh Cúp Báo Hải Phòng và chương trình nghệ thuật Liên hoan du lịch “Đồ Sơn - Miền di sản” được tổ chức vào tối ngày 30-4 tại khu du lịch Đồ Sơn.
Tổ chức tốt các trận bóng đá trong khuôn khổ giải bóng đá vô địch quốc gia và Cúp quốc gia năm 2019 tại Hải Phòng, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện để tổ chức giải vô địch bóng bàn các câu lạc bộ thành phố Hải Phòng năm 2019.
Tính đến ngày 16/4/2019, Đoàn vận động viên Hải Phòng tham dự tổng số 14 giải thể thao quốc gia, quốc tế và khu vực, đạt 67 huy chương các loại.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 16/3/2019 đến ngày 15/4/2019, toàn thành phố xảy ra 09 vụ tai nạn giao thông, trong đó đường bộ 08 vụ, đường thủy 01 vụ, làm 06 người chết và 03 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ tai nạn giao thông giảm 02 vụ, số người chết không đổi và số người bị thương giảm 02 người. Các vụ tai nạn chủ yếu từ va chạm cá nhân, do người dân chưa chấp hành đúng luật, không tuân thủ các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông. 
Cộng dồn từ đầu năm 2019 đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 25 vụ tai nạn giao thông, trong đó đường bộ 24 vụ, đường thủy 01 vụ. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 22 người và bị thương 07 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 03 vụ (tương ứng giảm 10,71%), số người chết không tăng không giảm và số người bị thương giảm 03 người.  
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 16/3/2019 đến ngày 15/4/2019, trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã xảy ra 08 vụ cháy, làm 01 người chết, không có ai bị thương. Thực tế đã xác định được giá trị thiệt hại về tài sản của 05 vụ cháy là 39 triệu đồng, các vụ cháy khác đang trong quá trình xác minh và thống kê giá trị thiệt hại về tài sản. 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 33 vụ cháy, bằng 70,21% so với cùng kỳ, làm 01 người chết, 01 người bị thương và giá trị thiệt hại về tài sản ước tính là 66 triệu đồng. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục chú trọng tăng cường phối hợp liên ngành để kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại các địa bàn, cơ sở trọng điểm dễ xảy ra cháy nổ; xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy./.

Tác giả: Cục Thống kê Hải Phòng

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây