Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 9 năm 2018

Thứ bảy - 29/09/2018 15:21
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 9 năm 2018 tăng 0,70% so với tháng trước, tăng 4,29% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9 năm 2018 ước tăng 26,6%
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 9, 9 THÁNG NĂM 2018
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Năm 2018 là năm thứ 3 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2021, cũng là năm thứ 3 thành phố chọn chủ đề năm “Tăng cường kỷ cương - thu chi ngân sách - cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh”. Trong bối cảnh kinh tế, chính trị thế giới, trong nước có nhiều chuyển biến tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tín dụng tăng, cải cách thể chế mạnh mẽ, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh được Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo quyết liệt đang phát huy hiệu quả; Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố đã có nhiều đổi mới trong phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành với nhiều cách làm hiệu quả, đưa Hải Phòng bước vào thời kỳ phát triển mới, có nhiều đột phá, tăng trưởng cao, an ninh chính trị ổn định.
Bên cạnh những thuận lợi, thành phố tiếp tục đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực còn diễn biến phức tạp, thị trường tài chính, tiền tệ biến đổi khó lường, xung đột vũ trang còn xảy ra tại nhiều khu vực. Tiềm năng, lợi thế lớn của thành phố chưa được khai thác hết và phát huy hiệu quả, hạ tầng kinh tế - xã hội còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đột phá mạnh mẽ hơn nữa của thành phố. 
Từ những kết quả đạt được trong năm 2017, ngay từ những tháng đầu năm 2018, Ủy ban nhân dân thành phố đã tập trung cao công tác chỉ đạo, điều hành để phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế  - xã hội năm 2018. Kết quả 9 tháng đầu năm 2018 đạt được như sau:

I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Về tăng trưởng kinh tế


   
  Cơ cấu  GRDP (%) Tốc độ tăng trưởng
so với cùng kỳ
(%)
(Theo giá SS 2010)
Đóng góp vào mức tăng trưởng
9 tháng/2018 (điểm%)


TỔNG SỐ
100,00 16,20 16,20
   - Nông lâm, nghiệp và thủy sản 5,11 2,92 0,16
  - Công nghiệp - Xây dựng 43,59 25,49 10,80
  - Thương mại - Dịch vụ 44,44 10,27 4,61
  - Thuế sản phẩm trừ trợ cấp 6,86 8,45 0,63
 
Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố (GRDP) theo giá so sánh 2010, ước tính 9 tháng năm 2018 đạt 108.597,6 tỷ đồng, tăng 16,20% so cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2017 tăng 13,73%), vượt kế hoạch năm 2018 (kế hoạch tăng 15%), cao nhất từ trước đến nay và cao nhất vùng Đồng bằng sông Hồng, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp phát triển kinh tế do thành phố ban hành và chỉ đạo. Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,92% (kế hoạch tăng 2,75%), đóng góp 0,16 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 25,49% (kế hoạch tăng 20,5%), đóng góp 10,80 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực dịch vụ tăng 10,27% (kế hoạch tăng 12,1%), đóng góp 4,61 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành thủy sản có mức tăng cao nhất, tăng 7,9% so với cùng kỳ, đóng góp 0,12 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành nông nghiệp tăng 1,04%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành lâm nghiệp giảm 2,94%. 
Trong khu vực công nghiệp - xây dựng, ngành công nghiệp tăng 25,94% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 9,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng chung, trong đó chủ yếu là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 28,37%, đóng góp 9,55 điểm phần trăm, với đóng góp chủ lực là ngành sản xuất sản phẩm điện tử của các dự án thuộc tập đoàn LG, ngành sản xuất trang phục, ngành sản xuất bê tông.
Ngành xây dựng tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, với tốc độ tăng 22,34%, đóng góp 1,19 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Trong 9 tháng đầu năm 2018 trên địa bàn thành phố nhiều dự án, công trình trọng điểm được khởi công, trong đó có nhiều dự án có giá trị đầu tư cao, có ý nghĩa chiến lược với tương lai phát triển của thành phố. 
Khu vực dịch vụ tăng 10,27% so với cùng kỳ, do đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng chung như sau: vận tải, kho bãi tăng 14,01%, đóng góp 2,11 điểm phần trăm; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy tăng 10,82%, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 17,21%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm, hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,72%, đóng góp 0,25 điểm phần trăm...
Về cơ cấu kinh tế trên địa bàn: khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng 5,11%, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 43,59%; khu vực dịch vụ chiếm 44,44%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,86%. Chín tháng đầu năm 2018, ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng GRDP của thành phố, cơ cấu kinh tế của Hải Phòng tiếp tục đi đúng hướng phù hợp với yêu cầu thúc đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bền vững theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số phát triển sản xuất (PTSX) công nghiệp trên địa bàn thành phố tháng 9 năm 2018 ước tăng 4,16% so với tháng trước và tăng 32,18% so với cùng kỳ. Chỉ số PTSX công nghiệp quý III/2018 có mức tăng trưởng ấn tượng, tăng 2,54% so với quý II và tăng 27,82% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đạt 30,74%, ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 7,45%, ngành khai khoáng giảm 7,94%, ngành sản xuất và phân phối điện giảm 2,3%. 
Tính chung 9 tháng đầu năm 2018 chỉ số PTSX ngành công nghiệp toàn thành phố tăng 25,15% so với cùng kỳ năm 2017, vượt kế hoạch năm 2018 (kế hoạch tăng 22%), trong đó: ngành chế biến, chế tạo tăng 28,13%, đóng góp 24,57 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,16%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 7,25%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 4,02%, làm giảm 0,09 điểm phần trăm mức tăng chung.
Trong 51 nhóm ngành kinh tế cấp 4 có 29 ngành có chỉ số PTSX công nghiệp 9 tháng năm 2018 ước tăng so với cùng kỳ, trong đó: ngành sản xuất thiết bị truyền thông tăng cao nhất, tăng 212,35%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng và thạch cao tăng 88,61%; may trang phục tiếp tục đứng thứ 3 với mức tăng 61,9%,...
Có 22 ngành có chỉ số PTSX công nghiệp giảm, trong đó ngành đóng tàu và cấu kiện nổi tiếp tục giảm sâu, giảm 52,26%; sản xuất đồ chơi giảm 32,08%; sản xuất thức ăn gia súc giảm 20,69%; sản xuất máy móc và thiết bị văn phòng giảm 14,31%;...
Chín tháng đầu năm 2018 chỉ số PTSX công nghiệp thành phố đạt mức tăng cao hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm 2017, do có sự đóng góp của các dự án FDI tiếp tục tăng năng lực sản xuất, sản lượng sản phẩm, là nhân tố chính tác động đến tăng trưởng công nghiệp thành phố, cụ thể:  
Ngành sản xuất thiết bị truyền thông, sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tiếp tục dẫn đầu, (lần lượt tăng 212,35%; 56,21% so với cùng kỳ) do có sự đóng góp của ba dự án công nghệ cao thuộc tập đoàn LG tại Hải Phòng (LG Electronics, LG Display và LG Innotek) với các sản phẩm màn hình điện thoại, ti vi, modun camera điện thoại và máy giặt. Các dự án của tập đoàn LG trong 9 tháng đầu năm 2018 đã đóng góp cho công nghiệp thành phố 82 nghìn tỷ đồng doanh thu, thu hút và tạo việc làm cho gần 13 nghìn lao động. Công ty LG Display và LG Innotek tuy mới đi vào sản xuất gần 1 năm đã có sức tăng trưởng sản xuất mạnh mẽ, doanh thu trong quý III tăng gấp đôi quý II và gấp 4 lần so với quý I/2018. Dự kiến thời gian tới với lượng đơn hàng dồi dào và tay nghề nhân công ổn định, sản lượng sản xuất của công ty LG Display và LG Innotek sẽ tiếp tục tăng cao.
Ngành sản xuất trang phục 9 tháng năm 2018 đạt mức tăng cao (+61,9% so với cùng kỳ năm 2017), với đóng góp chủ yếu của công ty TNHH may Regina Miracle tại khu công nghiệp Vsip Hải Phòng với 3 nhà máy đi vào sản xuất, dự kiến tháng 9 sản xuất và tiêu thụ tương đương tháng 8 và cùng kỳ, đóng góp 40% doanh thu  ngành may trang phục, nhu cầu lao động lên tới 28 nghìn người. Hiện nay, để đáp ứng quy mô lao động cho các nhà máy đã và sẽ đi vào sản xuất, doanh nghiệp phải tuyển dụng nguồn lao động từ các tỉnh lân cận với những điều kiện thu hút như: bố trí xe đưa đón, hỗ trợ đi lại, nhà trọ cho công nhân... 
Ngành sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng dự kiến trong tháng 9/2018 tiếp tục sản xuất với khối lượng lớn sản phẩm cọc bê tông và bê tông thương phẩm cung cấp cho các dự án đầu tư xây dựng lớn trên địa bàn. Quý 3/2018 sản lượng sản phẩm cọc bê tông ước tăng 46,8%, bê tông thương phẩm ước tăng 35,7% so với cùng kỳ. Dự kiến 9 tháng/2018 sản lượng sản xuất tăng 88,61% so với cùng kỳ.
Ngành sản xuất giày dép ước 9 tháng năm 2018 đạt mức tăng 8,36% so cùng kỳ (9 tháng/2017 tăng 1,4% so cùng kỳ) do có sự dịch chuyển đơn hàng từ thị trường Trung Quốc, thị trường này có xu hướng chuyển sang sản xuất các sản phẩm công nghệ cao tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp sản xuất giày dép có qui mô lớn trong 9 tháng/2018 đều có kết quả sản xuất kinh doanh tốt là kết quả của sự nỗ lực trong tìm kiếm đơn hàng, thu hút và đào tạo lao động, đầu tư máy móc thiết bị để tăng năng suất cũng như chất lượng sản phẩm. Ngành sản xuất giày dép của Hải Phòng trong những năm qua đã có những đóng góp lớn đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới.
Bên cạnh đó, trong quý III và 9 tháng/2018 tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp ở những ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn sản xuất giảm hoặc có tốc độ tăng thấp so với cùng kỳ, ảnh hưởng đến tốc độ tăng chỉ số PTSX công nghiệp 9 tháng/2018 trên địa bàn thành phố:
Ngành sản xuất xi măng quý 3/2018 giảm 2,12%, 9 tháng/2018 giảm 6,56% so với cùng kỳ, trong đó có 2 doanh nghiệp lớn là công ty xi măng Chinfon dự kiến 9 tháng/2018 sản lượng sản xuất giảm 9%, công ty xi măng Vicem Hải Phòng giảm hơn 2% so với cùng kỳ do khó khăn ở khâu tiêu thụ, cạnh tranh gay gắt ở thị trường nội địa với xi măng giá rẻ, xuất khẩu không đạt kế hoạch đề ra. Dự kiến trong những tháng cuối năm thời tiết thuận lợi hơn cho các hoạt động xây dựng, sản lượng sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp sẽ đạt mức cao hơn.
Ngành sản xuất sắt thép sản xuất ước quý 3/2018 giảm 4,64% so cùng kỳ, 9 tháng/2018 chỉ tăng 2,24% so cùng kỳ năm 2017 do các doanh nghiệp sản xuất sắt thép gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ, sản lượng tiêu thụ phôi thép sụt giảm mạnh do khách hàng nội địa chuyển hướng nhập phôi thép ở nhà cung cấp khác với giá rẻ hơn, doanh nghiệp chưa tìm được khách hàng mới, việc nhập phế liệu vẫn gặp khó khăn, phế liệu nhập về phải qua kiểm tra, chờ đợi nhiều ngày khiến chi phí nhập khẩu cao, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, giá sản phẩm đầu ra chỉ tăng nhẹ, không theo kịp với giá đầu vào... 
Quý III và 9 tháng năm 2018 ngành công nghiệp đóng tàu gặp nhiều khó khăn, khối lượng sản xuất thấp, quý 3 giảm 30,85% so với quý trước, giảm 56,78% so với cùng kỳ năm trước; 9 tháng chỉ đạt 48% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp đóng tàu vẫn tiếp tục đóng những sản phẩm từ năm trước chuyển sang và những tàu, xuồng nhỏ có giá trị thấp, chưa ký được hợp đồng tàu có trọng tải lớn; trong đó: công ty đóng tàu Hồng Hà giảm nhiều, dự kiến 9 tháng/2018 chỉ đạt 49,3% so với cùng kỳ; bên cạnh đó một số doanh nghiệp đóng tàu có giá trị sản xuất giảm so với cùng kỳ như: công ty đóng tàu Nam Triệu, công ty đóng tàu Phà Rừng, nhà máy đóng tàu Bạch Đằng...
Ngành sản xuất và phân phối điện 9 tháng đầu năm 2018 chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2017 (tăng 3,16%), trong đó: tháng 9 giảm 11,57% so với tháng trước và giảm 10,66% so với cùng kỳ; quý 3 giảm 31,57% so với quý trước, giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Công ty CP Nhiệt điện Hải Phòng trong tháng 4 tổ máy hoạt động luân phiên, khối lượng sản xuất bị giảm nhiều so với những tháng trước do quý 3 là mùa mưa bão nên các nhà máy thủy điện được huy động phát cao.
 Một số ngành sản xuất giảm do thiếu đơn hàng như ngành sản xuất môtơ, máy phát điện, sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất máy văn phòng, sản xuất đồ chơi, sản xuất bia giảm do giảm sản lượng bia chai...
* Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 9/2018 giảm 6,8% so với tháng trước và giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 9 tháng năm 2018 chỉ số tiêu thụ tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao so cùng kỳ: sản xuất trang phục tăng 63,7%; sản xuất bi, bánh răng, hộp số tăng 43,3%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng tăng 88,8%, sản xuất giày dép tăng 16%; sản xuất plastic và cao su tổng hợp tăng 24,8%...Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản giảm 19,5%; sản xuất thuốc, hóa dược giảm 24,5%; sản xuất đồ điện dân dụng giảm 4,3%, sản xuất bia giảm 13%... 
* Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tại thời điểm 30/9/2018 tăng 8% so với tháng trước và tăng 4,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ cho xe có động cơ tăng 43,9%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 2,5 lần; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 5,3%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 35,8%; sản xuất cấu kiện kim loại tăng 27,2%.
 Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: sản xuất săm lốp cao su giảm 51,7%; sản xuất máy móc và thiết bị văn phòng giảm 48,5%; sản xuất phân bón và hợp chất nitơ giảm 9%, sản xuất thuốc lá giảm 35,9%; sản xuất thiết bị truyền thông giảm 35,9%.
* Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp ước tại thời điểm 30/9/2018 tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 20,7% so với cùng kỳ, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 5,4%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,9%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32%. 
Chia theo ngành cấp I: ngành khai khoáng tăng 2,4%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 22,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng giảm 9,8%; ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý nước rác thải, nước thải tăng 0,7%. 
Trong 51 ngành cấp 4, một số ngành chỉ số sử dụng lao động tăng cao: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 6,6 lần; sản xuất trang phục tăng 30,1%; sản xuất thiết bị điện tăng 76,1%.
Một số ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm như: sản xuất, truyền tải và phân phối điện giảm 9,8%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 21,2%; sản xuất đồ uống giảm 2,4%.
* Một số sản phẩm công nghiệp ước 9 tháng năm 2018 so cùng kỳ: quần áo các loại đạt 99,7 triệu cái, tăng 38,6%; phân bón 168,7 nghìn tấn, giảm 3,6%; màn hình khác 6.160,5 nghìn cái, tăng 10%; máy giặt 951 nghìn cái, giảm 1,1%; lốp ô tô đạt 2.007 nghìn cái, tăng 3,5%; sắt thép các loại đạt 1.099 nghìn tấn, tăng 3,4%; xi măng Portland đen 3.512,6 nghìn tấn, giảm 6,5%; điện sản xuất 4.809 triệu Kwh, tăng 1,5%.
Trong quý 3/2018 một số sản phẩm công nghiệp tăng cao so với quý 2/2018: điện thoại dùng cho mạng di động đạt 2.425 nghìn cái, tăng 30,7%; máy giặt loại khác đạt 373 nghìn cái, tăng 20,3%. Một số sản phẩm giảm như: phân bón đạt 28,4 nghìn tấn, giảm 63,6%, xi măng Portland đen đạt 1.106 nghìn tấn, giảm 23,6%; điện sản xuất đạt 1.117 triệu Kwh, giảm 37,7%.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của 181 doanh nghiệp (DN) ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy: có 72,93% số DN đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2018 so với quý II/2018 tốt lên và giữ ổn định (33,7% DN đánh giá tốt lên; 39,23% DN đánh giá giữ ổn định); có 27,07% DN cho rằng khó khăn hơn. Trong đó: khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 80,67% DN đánh giá tốt lên và giữ ổn định (38,03% tốt lên, 42,25% giữ ổn định); cùng đánh giá này, ở khu vực DN nhà nước và DN ngoài nhà nước lần lượt là 42,86% (21,43% tốt lên, 21,43% giữ ổn định) và 71,87% (32,29% tốt lên, 39,58% giữ ổn đinh).
Dự báo quý IV/2018 khả quan hơn so với quý III/2018 khi có 87,43% DN lạc quan cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và ổn định (58,29% DN dự báo tốt lên; 29,14% DN dự báo giữ ổn định); chỉ có 12,57% doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn. Khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ DN dự báo tình hình sản xuất kinh doanh tốt lên và giữ ổn định ở quý IV/2018 cao nhất với 89,55% và thấp nhất là khu vực DN nhà nước với 78,57%.
Một số ngành dự báo tình hình sản xuất kinh doanh tốt như: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic…
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý III năm nay, có 53,04% DN cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 38,67% DN cho rằng nhu cầu thị trường trong nước thấp; 34,81% DN cho rằng không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu; 25,41% DN cho rằng gặp khó khăn về tài chính và 22,65% DN cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao là yếu tố quan trọng.
3. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2018 (theo giá so sánh 2010) ước đạt 11.230,4 tỷ đồng, tăng 2,96% so với cùng kỳ năm trước, vượt kế hoạch năm 2018 (kế hoạch tăng 2,77%), trong đó: ngành nông nghiệp đạt 7.877,2 tỷ đồng, tăng 1,04%; ngành lâm nghiệp đạt 33 tỷ đồng, bằng 97,06%; ngành thủy sản đạt 3.320,2 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ.
3.1. Nông nghiệp
* Trồng trọt
- Cây hàng năm
Tính đến ngày 15 tháng 9 năm 2018, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa 2018 toàn thành phố đạt 40.104,2 ha, bằng 94,58%, giảm 2.296,6 ha so với vụ mùa năm 2017.
Trong đó diện tích gieo cấy lúa vụ mùa đạt 35.075 ha, bằng 94,34%, giảm 2.103 ha so với cùng kỳ năm trước. Cây lúa đang trong thời kỳ con gái, nhiều diện tích lúa sớm đã vào đòng chuẩn bị trỗ. Trà mùa sớm đang giai đoạn đòng – trỗ bông, trà mùa trung, mùa muộn đang cuối đẻ nhánh - làm đòng, dự kiến các trà lúa mùa trỗ tập trung từ 10/9 - 30/9. 
Từ đầu vụ đến nay, diện tích lúa nhiễm sinh vật gây hại khoảng 14.819 ha, trong đó: bệnh lùn sọc đen 78,5 ha; rầy nâu, rầy lưng trắng 100 ha; sâu cuốn lá nhỏ lứa 6 là 10.100 ha; ốc bươu vàng 3.562 ha; bệnh khô vằn 500 ha. Diện tích lúa đã được phòng trừ 62.744 ha, trong đó: thu gom và phòng trừ ốc 3.562 ha; sâu cuốn lá nhỏ lứa 6 là 9.100 ha, phun trừ rầy lưng trắng phòng chống bệnh lùn sọc đen 53.144 ha. Vụ mùa năm nay chịu ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng thất thường, mưa nhiều do ảnh hưởng của bão gây ngập úng cho mạ, lúa, rau màu nhưng đã được bà con nông dân khắc phục kịp thời, đến nay cây lúa sinh trưởng tốt, mặt lá xanh, ít sâu bệnh, có tiềm năng đem lại năng suất cao.
Diện tích gieo trồng các loại cây khác vụ mùa 2018 đạt 5.029,2 ha, bằng 96,29%, giảm 193,6 ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích cây ngô đạt 234,2 ha, bằng 103,14%; khoai lang đạt 65,2 ha, bằng 81,81%; cây rau các loại đạt 4.004,5 ha, bằng 94,71%...
Ước tính đến ngày 15/9/2018, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 89.501,9 ha, bằng 95,98%, giảm 3.745,8 ha so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, tổng diện tích gieo cấy lúa đạt 69.339,8 ha, giảm 2.903,3 ha, bằng 95,98% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng lúa giảm do chuyển đổi từ đất lúa sang quy hoạch các dự án khu công nghiệp, khu tái định cư, xây dựng công trình thủy lợi, giao thông, chuyển chân ruộng trũng sang nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi từ đất lúa sang trồng rau màu, cây lâu năm hoặc bỏ không gieo cấy. Mặc dù diện tích cấy lúa dần thu hẹp nhưng người nông dân đưa những giống lúa tốt vào trồng và chăm sóc, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên vẫn cho năng suất cao, vụ Đông xuân 2018 cho năng suất đạt 70,05 tạ/ha, bằng 100,76% so vụ Đông xuân năm trước, lúa vụ mùa đang trong quá trình chuẩn bị trỗ cũng báo hiệu một vụ mùa bội thu.
Tổng diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm khác đạt 20.162,1 ha, bằng 95,99%, giảm 842,5 ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích cây ngô đạt 942,8 ha, bằng 89,92%; khoai lang đạt 705,9 ha, bằng 99,28%; cây rau các loại đạt 13.812,2 ha, bằng 96,61%, cây ớt đạt 1.005,7 ha, bằng 97,44%.  
Sản xuất nông nghiệp 9 tháng/2018 chịu ảnh hưởng bất lợi của thời tiết gây trở ngại đến việc gieo trồng, sinh trưởng phát triển của cây trồng; diện tích gieo trồng các loại cây giảm so với năm 2017 chủ yếu do thiếu lao động trong sản xuất nông nghiệp; chưa có các hợp đồng bao tiêu sản phẩm cũng như khâu chế biến bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, bên cạnh đó giá bán thành phẩm rẻ, không ổn định, hiệu quả kinh tế thấp nên các hộ trồng màu bỏ đất không sản xuất.
* Chăn nuôi
- Tình hình sản xuất tháng 9:
Ước tính tháng 9 năm 2018, số lượng đầu con gia súc, gia cầm toàn thành hiện có như sau: đàn trâu đạt 5.340 con, bằng 99,63% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò đạt 13.394 con, bằng 99,81% so với cùng kỳ năm trước; đàn lợn đạt 429.233 con, bằng 99,61% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm đạt 7.777,6 nghìn con, bằng 100,15% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà đạt 6.249,6 nghìn con, bằng 101,58% so với cùng kỳ.
Giá giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi tháng 9/2018 ổn định so với tháng 8 và tăng so với cùng kỳ, giá sản phẩm chăn nuôi duy trì ở mức ổn định, đặc biệt giá lợn hơi xuất chuồng vẫn đang duy trì ở mức giá cao.
Tình hình dịch bệnh:
Từ ngày 06/9 đến ngày 13/9/2018, trên địa bàn thành phố xuất hiện ổ dịch bệnh cúm gia cầm A/H5N6 trên đàn gia cầm tại 03 hộ thuộc xã Trường Thành, huyện An Lão. Tính đến hết ngày 13 tháng 9 số gia cầm ốm chết phải tiêu hủy là 5.300 con (trong đó: 3.050 con ốm, chết do gia đình tự tiêu hủy; số gia cầm tiêu hủy bắt buộc sau khi xác định nguyên nhân là 2.250 con).
Hiện nay trên đàn gia cầm và môi trường chăn nuôi của thành phố có sự lưu hành đồng thời 02 chủng vi rút gia cầm thể độc lực cao H5N1 và H5N6; bệnh dịch tả lợn Châu Phi có nguy cơ xâm nhập vào nước ta thông qua con đường vận chuyển sản phẩm tiểu ngạch... Để tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn, chủ động ngăn chặn dịch bệnh động vật xâm nhập, phát sinh, gây tác hại cho sản xuất chăn nuôi trên địa bàn thành phố; các cấp, ngành chỉ đạo phòng, chống, tăng cường kiểm tra, giám sát đôn đốc công tác phòng chống dịch bệnh tại các địa phương tránh việc phát sinh và lây lan dịch bệnh trên địa bàn thành phố. 
- Tình hình sản xuất quý III
 Ước tính quý III năm 2018, sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia súc, gia cầm đạt 31.269,3 tấn, bằng 99,91% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thịt trâu đạt 159,9 tấn, bằng 97,72%; thịt bò đạt 323,8 tấn, bằng 100,87%; thịt lợn đạt 18.934,4 tấn, bằng 98,99%; thịt gà đạt 9.669,4 tấn, bằng 102,10%. Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 73,3 triệu quả bằng 102,21% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: trứng gà đạt 49,2 triệu quả, bằng 102,36%; trứng vịt đạt 23,4 triệu quả, bằng 102,15%. 
Tình hình thời tiết quý III năm nay có nhiều diễn biến bất lợi cho đàn vật nuôi do ảnh hưởng của các đợt bão, nắng nóng, mưa lớn kéo dài, độ ẩm môi trường cao làm giảm sức đề kháng của vật nuôi. Mặc dù công tác phòng chống dịch bệnh luôn được các cấp, ngành tích cực quan tâm chỉ đạo nhưng tình hình dịch bệnh vẫn diễn biễn phức tạp và có chiều hướng gia tăng, nguyên nhân do sau một thời gian dài dịch bệnh ít xuất hiện, người chăn nuôi và một số địa phương đã chủ quan, chưa thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trong quá trình chăn nuôi. Trong quý III tổng lượng đàn gia cầm ốm, chết, tiêu hủy trên địa bàn thành phố tính đến ngày 15/9/2018 là 17.194 con (số gia cầm ốm, chết do gia đình tự tiêu hủy trước khi xác định nguyên nhân là 8.778 con, số gia cầm tiêu hủy bắt buộc là 8.416 con).
- Tình hình sản xuất 9 tháng 
Hoạt động chăn nuôi 9 tháng/2018 tương đối thuận lợi, mặc dù có thời điểm dịch bệnh, cúm gia cầm A/H5N6 xảy ra nhỏ lẻ trên địa bàn nhưng cơ bản được khống chế và ngăn chặn kịp thời, không lây lan, phát sinh ổ dịch mới. 
        Ước tính 9 tháng/2018, tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia súc, gia cầm đạt 88.736,2 tấn, bằng 101,76% so với cùng kỳ, trong đó: thịt trâu đạt 507,5 tấn, bằng 100,43%; thịt bò đạt 1.006 tấn, bằng 99,98%; thịt lợn đạt 51.806,1 tấn, bằng 101,45%; thịt gà đạt 28.390,7 tấn, bằng 102,39%; thịt vịt đạt 4.616,8 tấn, bằng 102,8%. Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 230,5 triệu quả, bằng 102,23%, trong đó: trứng gà ước đạt 148 triệu quả, bằng 102,01%; trứng vịt ước đạt 80,6 triệu quả, bằng 102,6% so với cùng kỳ.
3.2. Lâm nghiệp
Ước tính tháng 9 năm 2018, sản lượng gỗ khai thác đạt 195 m3, bằng 95,12% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 5.650 ste, bằng 94,17% so với cùng kỳ năm trước (sản lượng gỗ, củi chủ yếu được khai thác và thu nhặt từ cây lâm nghiệp trồng phân tán); số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 16 nghìn cây, bằng 103,23% so với cùng kỳ năm trước.  
Ước tính quý III năm 2018, sản lượng gỗ khai thác đạt 577 m3, bằng 94,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 16.120 ste, bằng 93,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 73 nghìn cây. Trong quý không xảy ra vụ cháy và chặt phá rừng trái phép. 
Ước tính 9 tháng năm 2018, sản lượng gỗ khai thác đạt 2.550 m3, bằng 97,78% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 46.075 ste, bằng 97,41% so với cùng kỳ năm trước. Lượng cây giống gieo ươm đạt 2.665 nghìn cây các loại, đủ cung ứng để thực hiện kế hoạch trồng rừng và cây phân tán năm 2018, số lượng cây trồng phân tán các loại đạt 208,5 nghìn cây; diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 56,5 ha, bằng 90,68% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 15.439,4 ha (trong đó ngân sách thành phố hỗ trợ là 8.181 ha).
Trong 9 tháng/2018, toàn thành xảy ra 03 vụ cháy rừng với diện tích 5,65 ha, chủ yếu là cháy thảm thực bì nên không làm ảnh hưởng đến diện tích rừng hiện có, nguyên nhân gây cháy do thời tiết hanh khô và người dân đốt vàng mã. 
3.3. Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 9/2018 ước đạt 11.939 tấn, tăng 602 tấn (+5,31%) so với cùng kỳ năm trước, quý III/2018 ước đạt 33.652,1 tấn, tăng 484,5 tấn (+1,46%) so với cùng kỳ năm trước, ước 9 tháng/2018 đạt 115.684,7 tấn, tăng 11.142,6 tấn (+10,66%) so với cùng kỳ năm trước.
* Nuôi trồng 
Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng/2018 ước đạt 13.253,6 ha, tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 8.269,3 ha, bằng 96,78%, tôm các loại đạt 3.511,6 ha, bằng 97,45%, thủy sản khác đạt 1.472,7 ha, bằng 202,09%. 
Sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch tháng 9/2018 ước đạt 4.492,2 tấn, bằng 108,99% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 3.030,4 tấn, bằng 118,89%; tôm các loại đạt 245,5 tấn, bằng 77,32%; thủy sản khác đạt 1.216,3 tấn, bằng 96,92%. Ước tính quý III/2018 sản lượng  nuôi trồng thủy sản đạt 12.045,5 tấn, chia ra: cá các loại đạt 7.490,5 tấn, bằng 105,09%; tôm các loại đạt 818,1 tấn, bằng 83,09%; thủy sản khác đạt 3.736,9 tấn, bằng 99,39%. Tính chung 9 tháng/2018, sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 47.160,7 tấn, bằng 101,06% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 29.640 tấn, bằng 105,45%; tôm các loại đạt 4.402,3 tấn, bằng 117,1%, thủy sản khác đạt 13.118,5 tấn, bằng 88,64%.
Khu vực nuôi cá lồng bè, nuôi nước ngọt, lợ vẫn tiếp tục thu hoạch sản phẩm đạt kích cỡ xuất bán, công tác vận động người dân cắt giảm lồng bè theo quy hoạch tiếp tục được triển khai. Tình hình thời tiết trong tháng chịu ảnh hưởng của dải hội tụ nhiệt đới, không khí lạnh hoạt động mạnh dần đã ít nhiều gây ảnh hưởng tới hoạt động nuôi trồng thủy sản. 
Các cơ sở sản xuất giống thủy sản tiếp tục vỗ cá bố mẹ, sinh sản cua biển, tôm sú phục vụ nhu cầu thả bù của các ao đầm nuôi; sản lượng 9 tháng/2018 ước đạt 1.497,3 triệu con giống, bằng 77,92% so với cùng kỳ năm trước
    * Khai thác:
Sản lượng khai thác thủy sản tháng 9/2018 ước đạt 7.446,8 tấn, bằng 103,2% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 5.189,8 tấn, bằng 104,91%; tôm các loại đạt 548,7 tấn, bằng 97,62%; thủy sản khác đạt 1.708,3 tấn, bằng 100,09%. 
Ước tính quý III/2018 sản lượng thủy sản khai thác đạt 21.606,6 tấn, bằng 101,46% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 14.389,9 tấn, bằng 104,32%; tôm các loại đạt 1.717,1 tấn, bằng 97,78%; thủy sản khác đạt 5.499,6 tấn, bằng 95,71%. 
Ước 9 tháng/2018 sản lượng thủy sản khai thác đạt 68.524 tấn, chia ra: cá các loại đạt 39.921,2 tấn, bằng 122,61%; tôm các loại đạt 5.656,2 tấn, bằng 120,54%; thủy sản khác đạt 22.946,6 tấn, bằng 111,27%.
Hoạt động khai thác thủy sản gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết đang vào mùa mưa bão, áp thấp nhiệt đới, gió Tây Nam, những tháng cuối vụ cá Nam, cá tập trung nhiều ở 02 khu vực Tây Bắc và Tây Nam Bạch Long Vỹ với các loài chủ yếu: cá nục, cá bạc má, cá cơm, cá thu, cá ngừ; nghề khai thác có hiệu quả: chụp mực, lưới rê. Thị trường tiêu thụ hải sản đảm bảo, giá mặt hàng hải sản tương đối cao; giá nhiên liệu cho hoạt động khai thác giữ ở mức tương đối ổn định đã tạo động lực cho ngư dân hăng say bám biển. Các ngành chức năng tích cực tuyên truyền, khuyến cáo ngư dân thường xuyên theo dõi chặt chẽ thông tin dự báo thời tiết trên radio hoặc Đài thông tin Duyên hải Hải Phòng và thông tin dự báo ngư trường để có kế hoạch sản xuất an toàn và hiệu quả, hạn chế được những thiệt hại về người và tài sản.
4. Đầu tư xây dựng
    4.1. Xây dựng
    Quý 3 năm 2018, giá trị sản xuất xây lắp quý 3/2017 (theo giá so sánh) trên địa bàn thành phố Hải Phòng ước đạt 9.531 tỷ đồng, tăng 37,76% so với cùng kỳ năm ngoái. Chia theo loại công trình:
-     Công trình nhà ở ước đạt 3.361 tỷ đồng tăng 34,54% so với cùng kỳ;
-     Công trình nhà không để ở ước đạt 2.124 tỷ đồng tăng 40,82% so với cùng kỳ;
-     Công trình kỹ thuật dân dụng ước đạt 2.051 tỷ đồng tăng 53,78% so với cùng kỳ;
-     Xây dựng chuyên dụng ước đạt 1.995 đồng tăng 26,38% so với cùng kỳ;
Dự tính 9 tháng đầu năm 2018, giá trị sản xuất xây lắp (theo giá so sánh) ước đạt 23.501 tỷ đồng, tăng 22,34% so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể:
-     Công trình nhà ở ước đạt 8.913 tỷ đồng tăng 28,39% so với cùng kỳ;
-     Công trình nhà không để ở ước đạt 4.570 tỷ đồng tăng 15,55% so với cùng kỳ;
-     Công trình kỹ thuật dân dụng ước đạt 5.489 tỷ đồng tăng 23,95% so với cùng kỳ;
-  Xây dựng chuyên dụng ước đạt 4.529 tỷ đồng tăng 16,61% so với cùng kỳ;
    Chín tháng đầu năm 2018, trong bối cảnh tình hình kinh tế xã hội thành phố tiếp tục ổn định và phát triển, các dự án hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm như Hạ tầng kỹ thuật khu đô thị Bắc sông Cấm; nhà máy ô tô Vinfast, cầu vượt nút giao Nguyễn Văn Linh, chỉnh trang sông Tam Bạc... vẫn được chú trọng triển khai và dần hoàn thiện. Quý 3 và 4, ngoài việc thi công những công trình còn dang dở từ các quý trước, một số dự án mới sẽ được bắt đầu như: nhà ga hành khách số 2 tại cảng hàng không quốc tế Cát Bi; đường và cầu Tân Vũ – Lạch Huyện số 2; các bến cảng tiếp theo của cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng; hai tòa nhà Chung cư A48 và A49 tại phường Lán Bè. Hoạt động xây dựng tại các khu dân cư được thúc đẩy hiệu quả thông qua cơ chế hỗ trợ xi măng của thành phố để hoàn thành hàng trăm tuyến ngõ, ngách xuống cấp, tạo bộ mặt đô thị khang trang, sạch đẹp tại các quận Hải An, Hồng Bàng, Lê Chân và Ngô Quyền. Trong đó, quận Hồng Bàng hoàn thành 152/152 ngõ, là địa phương đầu tiên về đích kế hoạch cải tạo, nâng cấp ngõ ngách đô thị xuống cấp năm 2018. Tình hình xây dựng thành phố đã có những tín hiệu tốt, phát triển ổn định theo đúng xu hướng chung.
    4.2. Đầu tư
    Dự tính quý III năm 2018, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn là 32.629,4 tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ. Chia ra:
-     Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 5.075,5 tỷ đồng, tăng 14,07% so với cùng kỳ, trong đó: vốn Trung ương quản lý là 1.078,5 tỷ đồng, giảm 38,3% so với cùng kỳ; vốn địa phương quản lý là 3.997 tỷ đồng, tăng 47,9% so với cùng kỳ;
-     Vốn ngoài nhà nước thực hiện là 21.643,7 tỷ đồng, tăng 100,4% so với cùng kỳ;
-     Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 5.910,2 tỷ đồng, tăng 17,8% so với cùng kỳ.
    Dự tính 9 tháng đầu năm 2018, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn là 65.577,7 tỷ đồng, tăng 48,18% so với cùng kỳ, bằng 80% kế hoạch năm 2018 (kế hoạch năm đạt 82.100 tỷ đồng, tăng 21%). Chia ra:
     - Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 9.972,3 tỷ đồng, giảm 3,4% so với cùng kỳ, trong đó: vốn Trung ương quản lý là 2.500,1 tỷ đồng, giảm 55,2% so với cùng kỳ; vốn địa phương quản lý là 7.472,2 tỷ đồng, tăng 57,3% so với cùng kỳ;
     - Vốn ngoài nhà nước thực hiện là 39.685 tỷ đồng, tăng 80,6% so với cùng kỳ;
     - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 15.920,4 tỷ đồng, tăng 33,1% so với cùng kỳ;
    Hải Phòng hiện là một trọng điểm phát triển kinh tế của miền Bắc và cả nước. Với tiềm năng, vị thế, sự đầu tư thích đáng về kết cấu hạ tầng cùng với sự đổi mới của cả hệ thống chính trị, mức tăng của quý III/2018 và 9 tháng/năm 2018 về tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn là những con số ấn tượng về tổng vốn đầu tư trên địa bàn thành phố trong vòng 15 năm trở lại đây. Tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện của Hải Phòng vẫn đang ở vị trí dẫn đầu so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong 9 tháng năm 2018. Có được kết quả như vậy là sự tập trung đầu tư của cả ba khu vực đầu tư: khu vực Nhà nước, khu vực Ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt đóng góp nhiều nhất là đầu tư của các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
    Khu vực Nhà nước dự kiến Quý III năm 2018 tăng 14% so với cùng kỳ năm 2017 phản ánh sự nỗ lực cân đối ngân sách địa phương cho các dự án công trình trọng điểm mang tính cấp bách của thành phố. Thực hiện vốn đầu tư 9 tháng năm 2018 đã phản ánh rõ sự mất cân đối của nguồn đầu tư công khi khu vực Nhà nước trung ương giảm 55,2% so với cùng kỳ; khu vực Nhà nước địa phương tăng 57,3% so với cùng kỳ. Trong 9 tháng đầu năm 2018 nguồn vốn trung ương giảm so với cùng kỳ do dự án cầu Tân Vũ - Lạch Huyện đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2017, dự án cảng Lạch Huyện trong giai đoạn chuẩn bị hoàn thành nên giá trị đầu tư thực hiện giảm nhiều. Tuy nhiên nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ, đó là sự nỗ lực rất lớn trong cân đối thu chi, tập trung đầu tư cho những dự án có vai trò then chốt, định hướng và tạo môi trường thuận lợi khơi thông thu hút các nguồn vốn đầu tư khác trong quá trình phát triển kinh tế. 
    Khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất (9 tháng/2018 chiếm 60,5% tổng đầu tư toàn xã hội) và có mức tăng vượt bậc so với cùng kỳ; quý III/2018 tăng 100,4%; ước 9 tháng/2018 tăng 80,63%. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước tập trung vào các dự án lớn, điển hình là Tập đoàn Vingroup với tổng vốn đầu tư gần trăm nghìn tỷ đồng vào các dự án: Khu vui chơi giải trí, nhà ở và công viên sinh thái đảo Vũ Yên; khu đô thị Vinhomes Imperia; tòa tháp 45 tầng; bệnh viện quốc tế Vinmec; khu đô thị cầu Rào 2 và đặc biệt nhất là Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô tô Vinfast với tổng vốn đầu tư khoảng 3,5 tỷ USD, riêng giai đoạn 1 là 35.000 tỷ đồng… Tập đoàn Sungroup đang khẩn trương đầu tư vào khu vực Cát Hải, Cát Bà với tổng vốn đầu tư 3 tỷ USD. Một loạt các doanh nghiệp, tập đoàn lớn khác cũng không ngần ngại rót hàng nghìn tỷ đồng vốn vào Hải Phòng như Tập đoàn BRG với dự án sân golf và khu biệt thự Đồ Sơn hơn 2.100 tỷ đồng; khách sạn 5 sao Hilton hơn 1.000 tỷ đồng; công ty Nhật Hạ với khách sạn 5 sao Pullman 1.600 tỷ đồng, tập đoàn Flamingo với dự án Flamingo Cát Bà Beach Resort gần 2.500 tỷ đồng… Những công trình này đang được đánh giá là sẽ làm thay đổi đáng kể diện mạo đô thị và phát triển kinh tế Hải Phòng. 
    Nguồn vốn FDI đầu tư vào Hải Phòng cũng không ngừng tăng nhanh trong những năm gần đây (9 tháng năm 2018 ước tăng 33,1% so với cùng kỳ; chiếm 24,3% tổng mức đầu tư toàn xã hội). Tính riêng 3 dự án của Tập đoàn LG đã có tổng vốn đầu tư lên tới trên 4 tỷ USD. Cùng với đó là một loạt các nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt tại Hải Phòng như Regina Miracle Internatinonal Việt Nam, Bridgestone, Nippro Pharma, Kyocera, Fuji Xerox, GE,…Mới đây, Tập đoàn Ren A Port (Bỉ) đã đầu tư thêm hơn 150 triệu USD xây dựng Khu công nghiệp Deep C 3 tại đảo Cát Hải và vừa đưa vào hoạt động KCN Deep C 2 với tổng vốn đầu tư 141 triệu USD… Dự kiến năm nay, Hải Phòng sẽ thu hút được khoảng hơn 2 tỷ USD vốn FDI, gấp hơn 2 lần so với kế hoạch đề ra.     
Tình hình thực hiện một số dự án lớn đến thời điểm hiện nay trên địa bàn: 
- Dự án Dự án Đầu tư xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng được khởi công vào ngày 14/4/2013, đến nay Gói thầu số 6 - đê chắn sóng đoạn A, kè bảo vệ, tôn tạo, xử lý nền đất yếu và hạ tầng điện nước đã hoàn thành; gói thầu số 10- đê chắn sóng đoạn B và đê chắn cát tiến độ thực hiện 77%, dự kiến tháng 8/2019 hoàn thành; gói thầu số 8 – nạo vét và đổ thải phần A tiến độ thực hiện đạt 98, dự kiến tháng 10/2018 hoàn thành; gói thầu số 9 - nạo vét và đổ thải phần B tiến độ thực hiện đạt 98%, dự kiến tháng 10/2018 hoàn thành.
- Dự án đầu tư xây dựng Hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới Bắc sông Cấm với tổng mức đầu tư là 9.899 tỷ đồng. Dự án công trình cầu Hoàng Văn Thụ là một hợp phần quan trọng trong dự án đến thời điểm hiện tại đang thi công lắp thang máy cầu; hệ thống chiếu sáng đang được thực hiện, vòm thép giữa sông đã được hợp long vào ngày 19/8 vừa qua, dự kiến quý 4/2018 sẽ hoàn thành. Đối với các gói thầu xây lắp công trình hạ tầng kỹ thuật khu đô thị Bắc sông Cấm, các nhà thầu đã tích cực huy động nhân lực, máy móc, thiết bị thi công cả ngày lẫn đêm đảm bảo tiến độ, dự kiến quý I/2019 sẽ hoàn thành. 
- Dự án đầu tư chỉnh trang lại sông Tam Bạc (đoạn từ cầu Lạc Long đến công viên Tam Bạc) với tổng mức đầu tư 1.454 tỷ đồng và dự án xây dựng trục đường Hồ Sen - Cầu Rào 2, đoạn từ nút giao với đường Nguyễn Văn Linh đến ngã 3 đường Chợ Con với tổng mức đầu tư 1.405 tỷ đồng hiện tại đang được triển khai với tiến độ khá nhanh, đảm bảo hoàn thành theo đúng kế hoạch đề ra.
    - Ngày 2/9/2018 thành phố đã khởi công dự án xây dựng nút giao thông Nam cầu Bính với tổng mức đầu tư 1.483 tỷ đồng. Đây là nút giao đầu tiên tại Hải Phòng được thiết kế xây dựng với 3 tầng: tầng hầm, tầng mặt và cầu vượt.        
    - Dự án Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô tô Vinfast của tập đoàn Vingroup được khởi công từ tháng 9/2017, hiện đang triển khai xong các hạng mục giao thông, các công trình nhà xưởng phục vụ cho việc sản xuất xe máy điện và ô tô, dự kiến hệ thống nhà xưởng sản xuất xe máy điện quý 3/2018 đi vào hoạt động; hệ thống xưởng sản xuất ô tô quý 3/2019 đi vào hoạt động.
- Dự án Khu đô thị Vinhomes Imperia đã triển khai xong cơ bản phần hạ tầng và cảnh quan chung, xây dựng nhà thấp tầng đạt khoảng hơn 1.200 căn trong tổng số 1.480 căn; cơ bản các công trình công cộng các nhà Clubhouse, trường học Vinschool mầm non, liên cấp, các công viên Pháp, Mỹ và Ý đã xong. Riêng công trình tổ hợp và khách sạn đã xây dựng xong tầng thứ 45 và cất nóc vào ngày 18/8/2018 vừa qua, hiện tại đang lắp kính hoàn thiện xung quanh tòa nhà.
- Dự án Khách sạn Chuo với tổng đầu tư 1.800 tỷ đồng đã được khởi công vào tháng 11/2017, hiện tại dự án đang được triển khai theo đúng tiến độ, ước thực hiện khoảng 20% khối lượng công việc.
 - Dự án Trung tâm thương mại Aeon Mall Hải Phòng của Nhật Bản với tổng mức đầu tư gần 190 triệu USD tương đương 4.100 tỷ đồng đã được khởi công xây dựng. Dự án được triển khai còn chậm do vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Việc dự án được xây dựng và đi vào hoạt động không chỉ tạo việc làm cho khoảng hơn 2.000 lao động, giúp thành phố có thêm nhiều nguồn thu ngân sách mà còn là điểm đến thuận tiện và hấp dẫn đối với người dân địa phương và khu vực. 
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/09/2018 Hải Phòng có 580 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư    :          15.806  triệu USD
Vốn điều lệ        :     5.397,149  triệu USD
Vốn Việt Nam góp    :        237,277  triệu USD
Nước ngoài góp    :     5.159,872  triệu USD
        Từ đầu năm đến 15/9/2018, toàn thành phố có 71 dự án cấp mới đến từ 11 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn đầu tư đạt 440,86 triệu USD, tăng 2,7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Điều chỉnh tăng vốn đầu tư có 30 dự án, với số vốn tăng là 985,57 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm đến 77%). Tổng cấp mới và tăng vốn toàn thành phố có 101 dự án, vốn đầu tư đạt 1.426,43 triệu USD.
Phân loại các dự án được cấp phép mới:
- Theo loại hình đầu tư: 100% vốn nước ngoài có 67 dự án, vốn đầu tư đạt 434,1 triệu USD; liên doanh 04 dự án, vốn đầu tư đạt 6,7 triệu USD.
- Theo lĩnh vực đầu tư: Trong tổng số 480,8 triệu USD vốn FDI thành phố thu hút được từ đầu năm đến nay, có 239,3 triệu USD đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, chiếm 49,76% tổng vốn FDI đăng ký. Lĩnh vực bán buôn, bán lẻ đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đạt 199,5 triệu USD, chiếm 41,5% tổng vốn FDI đăng ký. Các lĩnh vực còn lại chỉ chiếm 8.74% vốn FDI đăng ký với vốn đầu tư đạt 42 triệu USD.
- Theo đối tác đầu tư: Tính từ đầu năm đến 15/9/2018, thành phố có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Hải Phòng, trong đó: Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đăng ký đạt 201,4 triệu USD, chiếm 45.68% tổng vốn đầu tư; Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký đạt 87,5 triệu USD, chiếm 19,85% tổng vốn đầu tư và Hồng Kông đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký đạt 37,5 triệu USD, chiếm 8,5% tổng vốn đầu tư.  
Tính từ nửa cuối tháng 8 đến 15/9/2018 có 12 dự án cấp mới và 02 dự án điều chỉnh tăng vốn. Đối với dự án cấp mới, đáng kể nhất là dự án sản xuất van dùng điều hòa của công ty TNHH SanHua của nhà đầu tư Singapore với tổng vốn đăng ký đạt 19,8 triệu USD và dự án chế tạo sản xuất điện tử ô tô của nhà đầu tư Hồng Kông với vốn đăng ký đạt 2 triệu USD. 02 dự án điều chỉnh tăng vốn là dự án của Công ty TNHH chế phẩm nhôm Bảo Nguyên (Việt Nam) và dự án của Công ty TNHH bao bì Fuxin Việt Nam nhưng số vốn điều chỉnh tăng không lớn.
Cũng từ đầu năm đến 15/9/2018, có 3 dự án thu hồi do không triển khai, 7 dự án chấm dứt hoạt động theo quyết định của nhà đầu tư, 1 dự án chuyển thành 100% vốn trong nước trong đó có 04 dự án trong khu công nghiệp và 08 dự án ngoài khu công nghiệp. 
Ước thực hiện vốn đầu tư đạt 41,8%.
5. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ 9 tháng năm 2018 tiếp tục phát triển ổn định, các mặt hàng thiết yếu được cung ứng đầy đủ, kịp thời cho nhu cầu sản xuất cũng như đời sống của nhân dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 năm 2018 ước đạt 10.185,89 tỷ đồng, tăng 0,79% so với tháng trước và tăng 15,16% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 87.292,19 tỷ đồng, tăng 15,01% so với cùng kỳ năm trước. 
* Chia theo khu vực kinh tế 
- Khu vực kinh tế nhà nước tháng 9/2018 ước đạt 278,65 tỷ đồng, tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 17,85% so với cùng kỳ năm trước; 9 tháng/2018 ước đạt 2.435,92 tỷ đồng, tăng 13,42% so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực kinh tế ngoài nhà nước tháng 9/2018 ước đạt 9.392,43 tỷ đồng, tăng 0,83% so với tháng trước và tăng 15,12% so với cùng kỳ năm trước; 9 tháng/2018 ước đạt 80.582,96 tỷ đồng, tăng 15,22% so với cùng kỳ năm trước;
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tháng 9/2018 ước đạt 514,81 tỷ đồng, tăng 0,26% so với tháng trước, tăng 14,37% so với cùng kỳ năm trước; 9 tháng/2018 ước đạt 4.273,30 tỷ đồng, tăng 11,96% so với cùng kỳ năm trước;
* Chia theo ngành hoạt động
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 9 năm 2018 ước đạt 7.460,16 tỷ đồng, tăng 0,44% so với tháng trước, tăng 13,27% so với cùng kỳ năm trước. Quý 3 năm 2018, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 22.335,74 tỷ đồng, tăng 13,91% so với quý 3 năm 2017, đây là quý có mức tăng cao nhất trong 9 tháng đầu năm 2018. 
Cộng dồn 9 tháng/2018, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 65.980,40 tỷ đồng, chiếm 75,56% tổng mức và tăng 13,73% so với cùng kỳ năm trước do hàng hóa trên thị trường đa dạng về mẫu mã, giá cả tương đối ổn định và đảm bảo chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu mua sắm hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng của người dân và khách du lịch;
Tháng 9 năm 2018, hầu hết các ngành hàng ước tính doanh thu tăng hơn so với tháng trước như ngành hàng lương thực, thực phẩm (tăng 0,70%); may mặc (tăng 0,25%); vật phẩm văn hóa giáo dục (tăng 0,50%); xăng dầu (tăng 0,60%); nhiên liệu khác (tăng 0,67%)... Tháng 9/2018 là thời điểm bắt đầu một năm học mới, nhu cầu về sách vở, đồ dùng học tập tăng cao; bên cạnh đó, trong tháng có dịp Tết trung thu, nhu cầu về bánh trung thu và đồ chơi cho trẻ em cũng tăng cao. Vào thời điểm giao mùa, các cửa hàng quần áo thời trang, siêu thị, các cửa hàng bán lẻ đều triển khai nhiều chương trình khuyến mãi, thanh lý hàng hè nên sức mua trên thị trường tăng hơn so với tháng trước. Nhu cầu xây dựng ở Hải Phòng tăng cao, giá thép tăng đã kéo theo doanh thu ngành hàng gỗ và vật liệu xây dựng tăng theo, ước tính tăng 1,01% so với tháng 8/2018 và tăng 13,04% so với cùng kỳ. 
Tính chung 9 tháng/2018, một số ngành hàng có doanh thu tăng khá cao so với cùng kỳ là nhóm ngành hàng lương thực, thực phẩm, tăng 16,01%; hàng may mặc tăng 19,78%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 13,73%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,04%; xăng dầu tăng 17,45%... 
Ngày 06/9/2018 giá xăng dầu được điều chỉnh tăng (xăng RON 95 tăng 300 đồng/lít; xăng E5 tăng 300 đồng/lít; dầu diesel 0.05S tăng 380 đồng/lít; dầu hỏa tăng 290 đồng/lít…) đồng thời giá gas thế giới tăng nhẹ so với mức giá bình quân tháng 8 nên giá gas trong nước được điều chỉnh tăng 10.000 đồng/bình 12 kg. Do đó, doanh thu ngành hàng xăng dầu và ngành hàng nhiên liệu khác ước tính tăng lần lượt là 0,60% và 0,67% so với tháng 8/2018.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 9 năm 2018 ước đạt 154 tỷ đồng, tăng 1,22% so với tháng trước và tăng 25,14% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2018 ước đạt 472 tỷ đồng, tăng 22,13% so với cùng kỳ. Cộng dồn 9 tháng/2018, doanh thu lưu trú ước đạt 1.199 tỷ đồng, tăng 20,61% so với cùng kỳ năm 2017. 
- Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 9 năm 2018 ước đạt 1.555 tỷ đồng, tăng 1,29% so với tháng trước và tăng 28,97% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2018 ước đạt 4.657 tỷ đồng, tăng 27,78% so với cùng kỳ; cộng dồn 9 tháng/2018, doanh thu ăn uống ước đạt 12.138 tỷ đồng, tăng 23,08% so với cùng kỳ năm 2017. 
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 9 năm 2018 ước đạt 17,91 tỷ đồng, tăng 1,69% so với tháng trước, tăng 38,94% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2018 ước đạt 56,6 tỷ đồng, tăng 16,46% so với cùng kỳ; cộng dồn 9 tháng/2018 ước đạt 152,45 tỷ đồng tăng 23,33% so với cùng kỳ năm 2017. 
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 9 năm 2018 ước đạt 998,18 tỷ đồng, tăng 2,57% so với tháng trước, tăng 8,92% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 9 tháng/2018, doanh thu dịch vụ khác ước đạt 7.822,16 tỷ đồng, tăng 13,28% so với cùng kỳ năm trước;
Doanh thu các ngành dịch vụ khác hầu hết đều tăng so với tháng 8/2018: dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 6,91% do kết thúc tháng 7 âm lịch thị trường bất động sản bắt đầu nhộn nhịp trở lại; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 3,85%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 2,79%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,15% do thời tiết đang trong thời điểm giao mùa nên tình hình dịch bệnh gia tăng; dịch vụ nghệ thuật và vui chơi giải trí tăng 1,23% do trong tháng có ngày nghỉ lễ Quốc khánh 2/9 nên nhu cầu vui chơi giải trí tăng; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 3,33%...
Trong 9 tháng đầu năm 2018, thành phố tổ chức nhiều sự kiện quảng bá du lịch cùng với việc cầu Tân Vũ - Lạch Huyện đi vào hoạt động giúp rút ngắn thời gian di chuyển từ Hà Nội đến Hải Phòng đã thu hút lượng lớn khách trong và ngoài nước đến tham quan thành phố, đặc biệt là khách du lịch tới đảo Cát Bà tăng đột biến. Du lịch Hải Phòng đã nhiều chuyển biến tích cực trong môi trường kinh doanh. Các loại hình dịch vụ có nhiều cải thiện, cơ sở hạ tầng ngày càng được đầu tư mạnh mẽ như các dự án đầu tư, xây dựng khách sạn cao cấp và khu vui chơi giải trí. Bên cạnh việc tập trung nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, ngành du lịch Hải Phòng cũng không ngừng quảng bá xúc tiến tiềm năng du lịch thành phố. Sự phát triển mạnh mẽ trong kinh doanh du lịch tác động làm doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác trong 9 tháng đầu năm 2018 tăng cao so với cùng kỳ năm 2017.
6. Hoạt động lưu trú và lữ hành    
Tổng lượt khách tháng 9 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 760,29 ngàn lượt, tăng 1,22% so với tháng trước và tăng 19,87% so với cùng tháng năm 2017; trong đó khách quốc tế ước đạt 75 ngàn lượt, tăng 0,84% so với tháng trước và tăng 0,05% so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 9 tháng/2018, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 5.957 ngàn lượt, tăng 19,15% với với năm 2017, bằng 79,4% kế hoạch năm 2018.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành tháng 9 năm 2018 ước tăng 29,39% so với tháng trước do trong tháng có kỳ nghỉ lễ 2-9 nên nhiều gia đình lựa chọn các tour du lịch ngắn ngày trong dịp này. Cộng dồn 9 tháng/2018, lượt khách lữ hành ước tăng 3,37% so với cùng kỳ năm 2017.
7. Vận tải hàng hóa và hành khách
7.1. Vận tải hàng hoá

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 9 năm 2018 ước đạt 14,7 triệu tấn, tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 15,41% so với cùng tháng năm trước. Quý III/2018 ước đạt 43,76 triệu tấn, tăng 16,18% so với quý III năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 129,4 triệu tấn, tăng 15,20% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 9 năm 2018 ước đạt 8.063,2 triệu tấn.km, tăng 1,28% so với tháng trước và tăng 13,04% so với cùng tháng năm trước. Quý III/2018 ước đạt 24.189,1 triệu tấn, tăng 14,26% so với quý III năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 71.112,1 triệu tấn.km, tăng 15,08% so với cùng kỳ.
Nhìn chung, khối lượng hàng hóa vận chuyển, luân chuyển trong quý III và tháng 9 năm 2018 tăng trưởng ổn định do cả 3 tuyến đường bộ, đường biển, đường thủy nội địa, các doanh nghiệp vận tải nhận được nhiều đơn hàng vận chuyển hơn.
7.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 9 năm 2018 ước đạt 5,3 triệu lượt, tăng 0,49% so với tháng trước, tăng 14,52% so với cùng tháng năm trước. Quý III/2018 ước đạt 15,8 triệu tấn, tăng 14,58% so với quý III/2017. Ước tính 9 tháng/2018 khối lượng hành khách vận chuyển đạt 45,6 triệu lượt, tăng 14,09% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 9 năm 2018 đạt 210,4 triệu Hk.km, tăng 0,14% so với tháng trước và tăng 16,73% so với cùng tháng năm trước. Quý III/2018 ước đạt 633,2 triệu tấn, tăng 17,57% so với quý III/2017. Ước tính 9 tháng năm 2018 khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 1.824,8 triệu Hk.km, tăng 15,75% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển trong quý III và tháng 9 năm nay đạt mức tăng trưởng cao do nhu cầu đi lại, du lịch của hành khách dịp hè và nghỉ lễ 2/9 tăng, tuy nhiên không đồng đều ở các tuyến đường bộ, ven biển và thủy nội địa. Từ tháng 9 năm 2017, cầu vượt biển Tân Vũ - Lạch Huyện đi vào hoạt động, rút ngắn thời gian di chuyển, phương tiện đi lại linh hoạt, tiện lợi hơn nên lượng lớn khách du lịch ưu tiên di chuyển bằng đường bộ dẫn đến lượng hành khách ven biển tuyến Hải Phòng - Cát Bà tăng chậm, các doanh nghiệp vận tải cũng đã có phương án giảm giá vé tuy nhiên phần lớn chỉ phục vụ dân sinh và khách nội tỉnh. Bên cạnh đó vào ngày 2/9 vừa qua, cầu Bạch Đằng được thông xe làm rút ngắn khoảng cách Hải Phòng - Quảng Ninh xuống còn 25km thay vì 75 km như trước kia, ước tính lượng hành khách thông qua có sự tăng trưởng tốt.
7.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 9 năm 2018 ước đạt 2.179,8 tỷ đồng, tăng 0,38% so với tháng trước và tăng 11,71% so với cùng tháng năm trước. Quý III/2018 ước đạt 6.505,5 tỷ đồng, tăng 14,08% so với quý III/2017. Ước tính 9 tháng/ 2018 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 19.167,2 tỷ đồng, tăng 14,95% so với cùng kỳ năm trước.
7.4. Ga Hải Phòng
        Tổng doanh thu tháng 9 năm 2018 Ga Hải Phòng ước đạt 9,9 tỷ đồng, tăng 5,88% so với tháng trước, tăng 28,42% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 tổng doanh thu của Ga Hải Phòng đạt 85,1 tỷ đồng, giảm 1,57% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số hành khách vận chuyển tháng 9 năm 2018 ước đạt 48,9 ngàn lượt người, tăng 4,31% so với tháng trước, tăng 7,86% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 số hành khách đạt 389,6 ngàn lượt người, giảm 14,41% so với cùng kỳ năm 2017.
Tổng số hàng hóa vận chuyển tháng 9 năm 2018 ước đạt 88 ngàn tấn, tăng 7,31% so với tháng trước, tăng 5,73% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 hàng hóa vận chuyển đạt 839,7 ngàn tấn, giảm 3,16% so với cùng kỳ năm 2017. 
Tình hình hành khách và hàng hóa thông qua tại ga Hải Phòng 9 tháng năm nay giảm so với cùng kỳ. Để giải quyết vấn đề này ngành đường sắt đã có những động thái nâng cao sức hút đối với hành khách đi lại bằng tàu hỏa bằng việc ứng dụng công nghệ, đổi mới phương thức bán vé, đóng mới các đoàn tàu “năm sao” và nâng cao chất lượng phục vụ, ngành đường sắt quyết tâm duy trì những kết quả đạt được, bảo đảm chất lượng hiệu quả cao. Trong tháng 5/2018, giá vé tuyến Hải Phòng - Hà Nội đã được điều chỉnh tăng ở một số hạng mục cùng với đó là việc nâng cao chất lượng phương tiện, chất lượng phục vụ, quy trình bán vé mới theo hướng mở rộng dải giá vé, bán vé sớm để hành khách chủ động kế hoạch đi tàu, mục tiêu hướng tới nhu cầu của hành khách.
7.5. Sân bay Cát Bi
Tháng 9 năm 2018 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 21 tỷ đồng, tăng 3,56% so với tháng trước, tăng 58,65% so với cùng tháng năm 2017; 9 tháng năm 2018 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 176,3 tỷ đồng, tăng 19,15% so với cùng kỳ năm trước. 
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 9 năm 2018 ước đạt 1.250 chuyến, tăng 10,23% so với tháng trước, tăng 27,03% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 số lần máy bay hạ, cất cánh đạt 10.840 chuyến, tăng 2,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chuyến bay ngoài nước tháng 9/2018 ước đạt 95 chuyến, tăng 3,26% so với cùng kỳ; 9 tháng/2018 đạt 804 chuyến, giảm 14,47% so với cùng kỳ. 
Tổng số hành khách tháng 9 năm 2018 ước đạt 190 ngàn lượt người, tăng 3,14% so với tháng trước, tăng 29,05% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 tổng số hành khách ước đạt 1.770,2 ngàn lượt, tăng 12,62% so với cùng kỳ năm trước. Lượng hành khách thông qua trong quý III và 9 tháng tăng trưởng tốt. Lượng hành khách tăng chủ yếu do nhu cầu đi lại giữa các tỉnh cũng như của khách du lịch qua đường hàng không tăng.
Tổng số hàng hóa tháng 9 năm 2018 ước đạt 1.420 tấn, tăng 3,12% so với tháng trước, tăng 43,43% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 tổng lượng hàng hóa thông qua đạt 11.795 tấn, tăng 55,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: lượng hàng hóa đi tăng 155,3%, hàng hóa đến tăng 9,14% so với cùng kỳ năm trước.
8. Hàng hoá thông qua cảng
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 9 năm 2018 ước đạt 9,623 triệu TTQ, tăng 3,4% so với tháng trước và tăng 21,67% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: 
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 3,335 triệu TTQ, tăng 4,24% so với tháng trước, tăng 16,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: 
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp nhà nước Trung ương ước đạt 3,326 triệu TTQ, tăng 4,25% so với tháng trước, tăng 16,81% so với cùng kỳ năm trước.
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương ước đạt 9 ngàn TTQ, bằng tháng trước, giảm 39,48% so với cùng kỳ. 
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 6,287 triệu TTQ, tăng 2,96% so với tháng trước, tăng 24,6% so với cùng kỳ.
Cộng dồn 9 tháng đầu năm 2018, sản lượng hàng hóa thông qua trên địa bàn thành phố ước đạt 78,926 triệu tấn, tăng 19,08% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 73,8% kế hoạch năm 2018.
Doanh thu cảng biển tháng 9 năm 2018 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 498,1 tỷ đồng, tăng 2,55% so với tháng trước. Cộng dồn 9 tháng/2018 doanh thu cảng biển ước đạt 3.817 tỷ đồng, tăng 9,98% so với cùng kỳ năm trước.
9. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 9 năm 2018 tăng 0,70% so với tháng trước, tăng 4,29% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,36% so với tháng 12/2017. CPI bình quân 9 tháng đầu năm 2018 so với cùng kỳ năm trước tăng 4,35%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 9 nhóm chỉ số giá tháng 9/2018 tăng so với tháng trước với mức tăng như sau: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,63%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,18%; nhóm giao thông tăng 1,05%; nhóm giáo dục tăng 5,97%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,16%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,25%. Có 01 nhóm giảm là nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng, giảm 0,64%. Nhóm bưu chính viễn thông ổn định.
Nguyên nhân chính làm CPI tháng 9/2018 tăng là chỉ số giá dịch vụ giáo dục tăng 6,66% làm cho CPI chung tăng 0,42%; chỉ số giá thực phẩm tăng 0,86% làm cho CPI chung tăng 0,19%; chỉ số giá gas tăng 2,59% làm cho CPI chung tăng 0,03%; chỉ số giá xăng dầu diesel tăng 1,80% làm CPI chung tăng 0,06%....
Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 9/2018 tăng 0,96%, nhóm thực phẩm tăng 0,86% so với tháng trước do giá gạo và các loại ngũ cốc khác như khoai lang, sắn, ngô; các loại rau tươi, khô và chế biến…đều tăng giá.
Chỉ số nhóm giao thông tháng 9/2018 tăng 1,05% so với tháng trước do nhu cầu mua sắm phương tiện đi lại của người dân tăng lên sau khi kết thúc tháng 7 âm lịch. Trong tháng 9/2018, giá xăng dầu được điều chỉnh tăng 02 lần vào các ngày 06/9 và ngày 21/9/2018 với tổng mức tăng giá của xăng A95 và xăng E5 lần lượt là 600 đồng/lít và 620 đồng/lít. 
Chỉ số giá nhóm giáo dục trong tháng tăng 5,97% so với tháng trước, trong đó chỉ số giá dịch vụ giáo dục tăng 6,66% do nhu cầu tiêu dùng tăng và do học phí khối trung học cơ sở, trung học phổ thông, khối trung cấp, cao đẳng và đại học đều được điều chỉnh tăng cho năm học 2018-2019, cụ thể: mức học phí của khối THCS ở khu vực thành thị tăng từ 89.000 đồng/tháng lên 92.000 đồng/tháng, nông thôn tăng từ 60.000 đồng/tháng lên 62.000 đồng/tháng; khối THPT khu vực thành thị tăng từ 121.000 đồng/tháng lên 125.000 đồng/tháng, nông thôn tăng từ 75.000 đồng/tháng lên 77.000 đồng/tháng... 
* Chỉ số giá vàng 99,99% và Đô la Mỹ: 
- Chỉ số giá vàng tháng 9/2018 giảm 1,25% so với tháng trước, giảm 3,88% so với cùng tháng năm 2017, giảm 2,21% so với tháng 12 năm trước. Giá vàng bình quân tháng 9/2018 dao động ở mức 3,488 triệu đồng/chỉ, giảm 44.000 đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2018 tăng 0,08% so với tháng trước, tăng 2,51% so với cùng tháng năm 2017, tăng 2,55% so với tháng 12 năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 9/2018 dao động ở mức 23.331 đồng/USD, tăng 18 đồng/USD.
10. Bưu chính viễn thông
* Bưu chính, viễn thông Hải Phòng  
Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông Hải Phòng tháng 9 năm 2018 ước đạt 130,9 tỷ đồng, tăng 6,04% so với tháng trước, tăng 17,63% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 doanh thu bưu chính, viễn thông đạt 1.067,3 tỷ đồng, tăng 9,12% so với cùng kỳ năm trước.
Số thuê bao điện thoại phát triển mới tháng 9 năm 2018 ước đạt 1.600 thuê bao, tăng 3,49% so với tháng trước, tăng 46,52% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 số thuê bao điện thoại phát triển mới đạt 12.099 thuê bao, tăng 7,05% so với cùng kỳ năm trước. 
Số thuê bao Internet phát triển mới tháng 9 năm 2018 ước đạt 2.800 thuê bao, tăng 5,66% so với tháng trước, giảm 44,82% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 số thuê bao Internet phát triển mới đạt 28,2 ngàn thuê bao, giảm 44,85% so với cùng kỳ năm trước. 
* Chi nhánh Trung tâm viễn thông quân đội Viettel
Tổng doanh thu của Chi nhánh viễn thông quân đội Viettel tháng 9 năm 2018 ước đạt 117,5 tỷ đồng, tăng 1,12% so với tháng trước, tăng 12,23% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 tổng doanh thu của Chi nhánh viễn thông quân đội Viettel ước đạt 1015,2 tỷ đồng, tăng 8,29% so với cùng kỳ năm trước.
Số máy thuê bao điện thoại phát triển mới ước đạt 7.927 thuê bao, tăng 1,30% so với tháng trước, giảm 4,67% so với cùng tháng năm 2017. Ước tính 9 tháng/2018 số máy thuê bao điện thoại phát triển mới đạt 58,5 ngàn thuê bao, giảm 7,87% so với cùng kỳ năm trước.
Số thuê bao Internet phát triển mới tháng 9/2018 ước đạt 1.990 thuê bao, tăng 0,51% so với tháng trước, tăng 10,56% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 9 tháng/2018 số thuê bao Internet phát triển mới đạt 15.420 thuê bao, tăng 12,15% so với cùng kỳ năm trước.
11. Hoạt động tài chính, ngân hàng 
11.1. Tài chính 

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tháng 9/2018 ước đạt 6.004,3 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 51.885,2 tỷ đồng, tăng 2,9% so cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa tháng 9 ước đạt 1.927,2 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 16.994,7 tỷ đồng, tăng 19,3% so cùng kỳ; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu tháng 9/2018 ước đạt 3.800 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 31.338,7 tỷ đồng, bằng 91,5% so cùng kỳ.
Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 265,6 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 2.192,4 tỷ đồng, tăng 2,2% so cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 294,7 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 2.831,4 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 284 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 2.919,9 tỷ đồng, tăng 19,7% so cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 9/2018 ước đạt 1.999,2 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 14.829,6 tỷ đồng, bằng 94,2% so với cùng kỳ, trong đó: Chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 1.222,7 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 7.414 tỷ đồng, tăng 21,2% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 726,4 tỷ đồng, ước 9 tháng/2018 đạt 6.585,4 tỷ đồng, tăng 0,8% so cùng kỳ. 
11.2. Ngân hàng 
* Công tác huy động vốn:
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến hết tháng 9 năm 2018 đạt 180.423 tỷ đồng, tăng 11,60% so với cùng kỳ năm trước, tăng 10,85% so với cuối năm 2017.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 170.686 tỷ đồng, tăng 12,72% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 94,6%; ngoại tệ ước đạt 9.737 tỷ đồng, bằng 95,04% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,4%. 
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 125.902 tỷ đồng, tăng 12,19% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 69,78%; tiền gửi thanh toán ước đạt 50.271 tỷ đồng, tăng 9,75% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 27,86%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 4.250 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,36%.
* Công tác tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế ước thực hiện đến hết tháng 9 năm 2018 đạt 110.457 tỷ đồng, tăng 16,68% so với cùng kỳ năm trước, tăng 11,59% so với cuối năm 2017. 
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND đạt 102.566 tỷ đồng, tăng 18,28% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 92,86%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 7.891 tỷ đồng, bằng 99,21% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 7,14%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 49.221 tỷ đồng, tăng 20,36% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 44,56%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 61.236 tỷ đồng, tăng 13,88% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 55,44%. 
12. Xuất nhập khẩu hàng hóa
12.1. Xuất khẩu hàng hoá

Kim ngạch xuất khẩu tháng 9 năm 2018 ước đạt 715,9 triệu USD, tăng 0,77% so với tháng trước; trong đó: khu vực kinh tế trong nước ước đạt 216,6 triệu USD, tăng 0,56%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 499,3 triệu USD, tăng 0,87%. 
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9 năm 2018 ước tăng 26,6%, trong đó: khu vực kinh tế trong nước tăng 19,65%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 29,88%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước thực hiện quý III năm 2018 đạt 2.131,3 triệu USD, tăng 1,64% so với quý II năm 2018, tăng 26,95% so với cùng kỳ năm 2017.
Tính chung 9 tháng năm 2018, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 6.038,4 triệu USD, tăng 25,82% so với cùng kỳ năm 2017, bằng 78,5% kế hoạch năm 2018; trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 1.632,1 triệu USD, tăng 22,99%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4.406,3 triệu USD, tăng 26,9%.
Một số mặt hàng xuất khẩu trong 9 tháng năm 2018 có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: sản phẩm Plastic đạt 330,1 triệu USD, tăng 26,32%; hàng dệt may đạt 380,8 triệu USD, tăng 42,5%; giày dép đạt 1.278,7 triệu USD, tăng 20,3%; hàng điện tử đạt 320,9 triệu USD, tăng 42,28%; dây điện và cáp điện đạt 469,5 triệu USD, tăng 20,56%.
12.2. Nhập khẩu hàng hóa    
Kim ngạch nhập khẩu tháng 9 ước đạt 697,5 triệu USD, tăng 1,08% so với tháng trước; trong đó: khu vực kinh tế trong nước ước đạt 205,7 triệu USD, tăng 0,84%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 491,8 triệu USD, tăng 1,18%. 
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9 năm 2018 ước tăng 21,68%; trong đó: khu vực kinh tế trong nước tăng 16,34%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,06%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước thực hiện quý III năm 2018 đạt 2.065,6 triệu USD, tăng 6,13% so với quý II năm 2018, tăng 21,18% so với cùng kỳ năm 2017.
Tính chung 9 tháng năm 2018, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 5.804,9 triệu USD, tăng 19,93% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 1.568,4 triệu USD, tăng 16,91%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4.236,5 triệu USD, tăng 21,09%. 
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu trong 9 tháng năm 2018 tăng cao hơn so với cùng kỳ: hóa chất đạt 72,7 triệu USD, tăng 21,51%; phụ liệu hàng may mặc đạt 199,5 triệu USD, tăng 25,6%; phụ liệu giày dép đạt 794,7 triệu USD, tăng 19,62%; vải may mặc đạt 129,3 triệu USD, tăng 37,98%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 762 triệu USD, tăng 18,05%.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Lao động - thương binh, xã hội

* Công tác lao động, việc làm
Tháng 9 năm 2018 sàn giao dịch việc làm thành phố tổ chức được 04 phiên giao dịch việc làm, với 130 lượt doanh nghiệp tham gia tuyển dụng, nhu cầu tuyển dụng là 15.480 lượt lao động; tư vấn giới thiệu việc làm cho 1.300 lao động (tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2017); ước cấp mới 21 giấy phép lao động, cấp lại 52 giấy phép lao động và miễn cấp 27 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể được 11 doanh nghiệp. Trong tháng trên địa bàn thành phố không xảy ra đình công, tai nạn lao động nghiêm trọng.
Tính chung 9 tháng năm 2018 đã tổ chức được 25 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng của 915 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng 67.839 lượt lao động. Số lao động đến tìm việc đạt 70.789 lượt người, gấp trên 1,04 lần nhu cầu tuyển dụng; số lao động được giới thiệu việc làm chỉ đạt 18,36% số lượt đến sàn, đáp ứng được 19,16% nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 9.340 người (giảm 6,21% so với cùng kỳ năm 2017); ước cấp mới 600 giấy phép lao động, cấp lại 579 giấy phép lao động và miễn cấp 147 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể được 103 doanh nghiệp (bằng 104% so với cùng kỳ năm 2017).
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn thành phố xảy ra 05 cuộc đình công với 3.877 lao động tham gia (giảm 02 cuộc và tăng 1.967 lao động so với cùng kỳ năm 2017); xảy ra 09 vụ tai nạn làm chết 09 người (giảm 01 vụ và 01 người chết so với cùng kỳ năm 2017).
* Công tác giáo dục nghề nghiệp
Chín tháng năm 2018 tổng số tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp trên toàn thành phố ước đạt 38.030 học sinh, sinh viên, bằng 74,5% kế hoạch năm và bằng 127,5% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó cao đẳng 1.780 sinh viên; trung cấp 2.750 học sinh; sơ cấp và dưới 3 tháng 33.500 học sinh. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 79,5%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ trở lên đạt 32,7%.
* Công tác người có công
Tháng 9 năm 2018, giải quyết chế độ chính sách đối với 1.209 trường hợp; tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 28 trường hợp; xác nhận, công nhận người có công, quyết định cho hưởng chế độ với 21 trường hợp. 
Trong 9 tháng năm 2018 đã giải quyết chế độ chính sách cho 9.152 trường hợp; trợ cấp hàng tháng cho 74 người; ưu đãi trong giáo dục đào tạo với 14 người; quyết định trợ cấp 1 lần đối với 390 người có công và thân nhân; đề nghị công nhận liệt sỹ đối với 90 trường hợp.
* Công tác giảm nghèo và bảo trợ xã hội
Tháng 9 năm 2018, tiếp nhận 03 đối tượng vào Trung tâm Điều dưỡng người tâm thần, tập trung 61 lượt người lang thang. Hướng dẫn triển khai nhân rộng mô hình giảm nghèo bền vững năm 2018. Tính chung 9 tháng năm 2018 đã tiếp nhận 44 đối tượng vào điều trị, chăm sóc nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội, tổng số đối tượng có đến tháng 9/2018 là 714 người, bằng 105,6% cùng kỳ năm 2017. Tập trung 602 lượt người lang thang, giảm 163 lượt người (bằng 88,9% so với cùng kỳ năm trước). Thực hiện chi trả trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng và các chế độ hỗ trợ kinh phí đối với 72.154 người (tăng 3.118 đối tượng, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2017). Cấp thẻ Bảo hiểm y tế năm 2018 cho 30.268 đối tượng bảo trợ xã hội với kinh phí hơn 21,2 tỷ đồng.
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Trong tháng 9/2018 tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại Cơ sở cai nghiện ma túy cho 1.589 lượt người; tiến hành 17 đợt xét nghiệm ma tuý cùng Công an và bắt giữ 102 đối tượng với 55 trường hợp dương tính với ma tuý. Trong 9 tháng đã tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cho 2.497 lượt người, bằng 91,39% so với cùng kỳ năm trước; cai nghiện tại gia đình và cộng đồng được 290 người, bằng 107,8% cùng kỳ năm trước; phối hợp với Công an tiến hành 71 đợt xét nghiệm tìm chất ma túy đối với 432 đối tượng bị bắt giữ, kết quả phát hiện 266 trường hợp dương tính với ma túy; kiểm tra 284 buổi tại 1.116 cơ sở kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn, karaoke...
2. Giáo dục - Đào tạo
Các trường học chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2017-2018 và tiếp tục triển khai công tác tuyển sinh đầu năm học mới theo sự phân công chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo. Kỷ cương, nề nếp trong hoạt động tại các cơ sở giáo dục được giữ vững, chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục phát triển. Từng bước thực hiện việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy được đẩy mạnh thực hiện ở tất cả các cấp học, ngành học.
Công tác tổ chức các kỳ thi đặc biệt là kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và tuyển sinh đầu các cấp học được tiến hành nghiêm túc, công khai minh bạch với kế hoạch tổ chức chi tiết, cùng việc đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin giúp tăng hiệu quả.
Ngành giáo dục đã tham mưu với Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị quyết về cơ chế chính sách trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi; tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ giáo viên giỏi trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia, quốc tế của thành phố và đã được đưa vào thực tiễn với mức thưởng gần 3 tỷ đồng cho các em học sinh và giáo viên có học sinh đoạt giải trong kỳ thi Olympic quốc tế và kỳ thi Khoa học kỹ thuật quốc tế tại Mỹ năm 2018.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm, làm tốt công tác xã hội hoá. Tính đến tháng 6/2018 có thêm 34 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường được công nhận lên 353 trường.
Năm học 2018-2019 đã chính thức bắt đầu với lễ khai giảng được tổ chức khắp các trường, các cấp học trên địa bàn toàn thành phố trong không khí rộn ràng, vui tươi, thực sự là ngày Hội toàn dân đưa trẻ tới trường. Ngành giáo dục tiếp tục triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong học kỳ 1 năm học 2018-2019, tiêu biểu là các hoạt động chào mừng Kỷ niệm 36 năm ngày nhà giáo Việt Nam, 63 năm xây dựng và phát triển ngành giáo dục và đào tạo thành phố, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới,…
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm 
Tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2018, Sở Y tế tiếp tục chỉ đạo Trung tâm Y tế dự phòng thành phố chủ động, tăng cường công tác giám sát tại các cơ sở Y tế đẩy mạnh phòng, chống, ngăn chặn các loại dịch bệnh. Trong 9 tháng/2018 trên địa bàn thành phố đã ghi nhận số ca mắc tăng của bệnh tay chân miệng, quai bị, tuy nhiên chưa phát hiện ca bệnh zika, Mer-CoV… Diễn biến một số bệnh truyền nhiễm so với cùng kỳ năm 2017 như sau: 38 ca sốt xuất huyết (giảm 392 ca); 2160 ca tay chân miệng (tăng 1181 ca); 502 ca thủy đậu (giảm 533 ca); 225 ca quai bị (tăng 09 ca); 1.776 ca tiêu chảy (giảm 153 ca); 3.149 ca cúm (giảm 637 ca); 06 ca sởi (giảm 01 ca); 13 ca viêm não virus (giảm 17 ca). Các dịch bệnh khác ổn định, không xuất hiện các dịch bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm.
Tiến hành các hoạt động kiểm tra đánh giá điều kiện vệ sinh, giám sát chất lượng nước ăn uống, sinh hoạt đối với các công ty cấp nước; kiểm tra công tác y tế trường học cho 290 trường; khống chế bệnh sốt rét, bệnh lao, bệnh sởi, các chương trình y tế khác đều được triển khai hiệu quả, đạt chỉ tiêu đề ra. Công tác an toàn trong tiêm chủng được đảm bảo.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 9 tháng đầu năm 2018 đã có nhiều đợt kiểm tra về chất lượng an toàn thực phẩm với tổng số 14.490 cơ sở được kiểm tra. Tỷ lệ cơ sở được kiểm tra đạt yêu cầu là 78,4%. Trong đó các cơ sở sản xuất đạt 78,3%, các cơ sở kinh doanh đạt 79,1%, các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống đạt 77,5%; triển khai tháng hành động an toàn thực phẩm 2018 với chủ đề “Tăng cường trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh thực phẩm” từ 15/4 -15/5/2018; từ đầu năm đến thời điểm báo cáo xảy ra 2 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể với 47 trường hợp, không gây nguy hiểm tính mạng. 
Công tác phòng, chống HIV/AIDS: trong 9 tháng năm 2018, Hải Phòng xét nghiệm phát hiện 154 người nhiễm mới HIV, nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS là 25 người và số bệnh nhân tử vong là 24 người. Số liệu dịch HIV phát hiện 9 tháng giảm cả 3 chỉ số: nhiễm mới, số chuyển AIDS, số tử vong. Xu hướng dịch HIV/AIDS tại thành phố Hải Phòng giảm dần 10 năm trở lại đây. Tính đến 31/8/2018 lũy tích người nhiễm HIV là 12.240 người, số người chuyển AIDS 6.272 người, số trường hợp tử vong là 4.530 người, số người nhiễm HIV hiện còn sống là 7.710 người.
4. Văn hóa - Thể thao
* Công tác văn hóa
Tập trung đẩy mạnh nâng cao chất lượng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng nông thôn mới; tổ chức thanh tra, kiểm tra chuyên ngành các điểm kinh doanh hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá, hoạt động vui chơi giải trí, cơ sở hoạt động thể dục thể thao. 
Chín tháng đầu năm 2018 nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng kỷ niệm các sự kiện, các ngày tết, ngày lễ lớn đã được tổ chức thành công trên địa bàn thành phố. Tiêu biểu là các chương trình nghệ thuật đêm giao thừa - đón xuân Mậu Tuất 2018, hoạt động giao lưu văn hóa Nhật Bản và Triển lãm hoa Anh Đào tại Hải Phòng; Lễ hội Hoa Phượng Đỏ - Hải Phòng 2018; Triển lãm chuyên đề kỷ niệm 73 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9...Các hoạt động, lễ hội diễn ra an toàn nhận được sự hưởng ứng và ủng hộ tích cực từ người dân người dân và du khách. Các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp thành  phố tham gia các Liên nghệ thuật toàn quốc đều đạt những thành tích ấn tượng.
* Công tác thể thao
Thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn thành phố tiếp tục phát triển sâu rộng, thu hút được sự quan tâm, hỗ trợ, phối hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013 - 2020. Đến nay, tỷ lệ người tập thể thao thường xuyên đạt 32,2%; số gia đình thể thao đạt 17,7%; tỷ lệ trường học dạy thể dục thể thao nội khóa đạt 100%, ngoại khóa đạt 84%, tổng số câu lạc bộ thể dục thể thao đạt 2.510 CLB... 
Thể thao thành tích cao tiếp tục duy trì và phát huy thành tích tại một số môn thể thao mũi nhọn. Trong 9 tháng năm 2018, các đội tuyển thể thao đã tham gia thi đấu 73 giải thể thao quốc gia, quốc tế, giành 333 huy chương các loại, trong đó: 103 huy chương Vàng, 94 huy chương Bạc và 136 huy chương Đồng, phá 07 kỷ lục. Công tác xây dựng lực lượng vận động viên được chú trọng, duy trì và phát huy các môn thể thao Hải Phòng có thế mạnh.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 16/8/2018 đến ngày 15/9/2018 đã xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 04 người và bị thương 04 người. So với cùng kỳ năm 2017 số vụ tai nạn giao thông tháng 9/2018 giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người và số người bị thương tăng 01 người. 
Từ đầu năm đến tháng 9 năm 2018 toàn thành phố đã xảy ra tổng cộng 72 vụ tai nạn giao thông, trong đó đường bộ 71 vụ, đường thủy 01 vụ, làm 59 người chết, 33 người bị thương. Trong đó quý II/2018 số vụ tai nạn, số người chết và người bị thương là lớn nhất trong 3 quý (chiếm 43,05% số vụ, 38,98% số người chết, 54,55% số người bị thương). Quý III năm 2018 xảy ra 24 vụ tai nạn, giảm 22,58% so với quý II nhưng tăng 20% số vụ so với quý 3 năm 2017, cùng số người chết, bị thương đều tăng.
So với cùng kỳ 9 tháng đầu năm trước, số vụ tai nạn giao thông không tăng giảm, số người chết giảm 13 người (giảm 18.06%), số bị thương tăng 01 người. Nguyên nhân chủ yếu do người dân chưa chấp hành đúng luật hoặc không tuân thủ các biện pháp đảm bảo an toàn cá nhân khi tham gia giao thông. Nhìn chung không có tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, công tác đảm bảo an toàn giao thông đang dần có sự cải thiện.
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Tháng 9 năm 2018 trên địa bàn thành phố đã xảy ra 10 vụ cháy, trong đó 05 vụ cháy nhà dân, 01 vụ cháy cơ quan doanh nghiệp. Các vụ cháy không gây thiệt hại về người, giá trị thiệt hại ban đầu ước tính 2 triệu đồng, một số vụ đang xác minh giá trị thiệt hại tài sản. Quý 3/2018 tổng cộng xảy ra 26 vụ cháy nổ, giảm 16,13% so với quý II/2018, tăng 420% so với cùng kỳ, chủ yếu các vụ cháy nhỏ không gây thiệt hại về người, tài sản thiệt hại ước tính 1.540 triệu đồng.
Cộng dồn 9 tháng đầu năm 2018, toàn thành phố đã xảy ra 90 vụ cháy, 02 vụ nổ tăng 36 vụ so với cùng kỳ năm 2017 (tăng 64,29%), làm 04 người chết và 06 người bị thương (tăng 03 người chết, số người bị thương bằng cùng kỳ), giá trị thiệt hại ước tính 12.128,8 triệu đồng. Phần lớn các vụ cháy xảy ra ở hộ dân cư do sự bất cẩn và thiếu thốn phương tiện phòng cháy chữa cháy của người dân. Các vụ cháy xảy ra đã được cảnh sát phòng cháy chữa cháy cứu hộ, cứu nạn nhanh chóng kịp thời và hiệu quả, không để xảy ra cháy lan, cháy lớn, đảm bảo an toàn.
Khái quát lại, kinh tế - xã hội thành phố 9 tháng đầu năm 2018 tiếp tục giữ được đà tăng trưởng tốt, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 16,20%, cao nhất từ trước đến nay, cao hơn nhiều tỉnh, thành phố lớn và cao nhất vùng Đồng bằng sông Hồng; hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của thành phố đạt mức tăng cao so với cùng kỳ; môi trường đầu tư kinh doanh thành phố tiếp tục được cải thiện tích cực. Hải Phòng được các doanh nghiệp đánh giá là một trong những địa phương có môi trường đầu tư hấp dẫn nhất. Cùng với việc phát triển kinh tế, tình hình chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế như: giải phóng mặt bằng tại một số dự án hạ tầng kỹ thuật của thành phố chưa đảm bảo tiến độ; thu ngân sách chưa đạt như kỳ vọng; xuất hiện một số dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp như cúm gia cầm, lùn sọc đen…
Trong những tháng cuối năm, kinh tế cả nước và thành phố dự báo có nhiều thuận lợi, bên cạnh đó tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; các ngành, địa phương, đơn vị cần thực hiện nghiêm túc và đồng bộ chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố, quyết tâm phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đã đề ra trong năm 2018, trong đó tiếp tục thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây: 
Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, tích cực tăng thu ngân sách.
Hai là, tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trên địa bàn thành phố.
Ba là, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, dịch bệnh.
Bốn là, tiếp tục chăm lo đến công tác an sinh, phúc lợi xã hội, ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, trị an./.

Tác giả: Cục Thống kê Hải Phòng

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây