Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 11/2019

Thứ sáu - 29/11/2019 10:46
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2019 tăng 1,5% so với tháng trước nhưng giảm 5,17% so với cùng kỳ năm trước, cộng dồn 11 tháng/2019 chỉ số tiêu thụ tăng 1,1%
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số phát triển sản xuất (PTSX) công nghiệp (IIP) tháng 11/2019 ước tăng 0,53% so với tháng trước và tăng 23,26% so với cùng kỳ. Dự tính 11 tháng/2019, IIP đạt mức tăng 24,16% so với cùng kỳ.
 Trong các ngành công nghiệp cấp I, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 25,10%, đóng góp 21,66 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 16,23%, đóng góp 2,33 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 1,61%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,89%, đóng góp 0,16 điểm phần trăm mức tăng chung.
Trong 52 nhóm ngành kinh tế cấp 4 có 36 ngành có chỉ số PTSX công nghiệp tăng, trong đó: ngành sản xuất mô tô, xe máy điện là ngành có mức tăng cao nhất, tăng 473,45%; tiếp theo sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện, thiết bị phân phối và điều khiển điện với mức tăng 292,8%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 68,26%...
Có 16 ngành kinh tế cấp 4 giảm, trong đó: ngành sản xuất đồ chơi giảm 57,03%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 33,71%; sản xuất thuốc, hóa dược giảm 22,27%; sản xuất bia giảm 16,81%...

Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp - IIP (%)

 

Ước tính tháng 11/2019 so với tháng trước

Ước tính tháng 11/2019 so với cùng kỳ

Cộng dồn 11 tháng 2019 so với cùng kỳ

Toàn ngành công nghiệp

100,53

123,26

124,16

Khai khoáng

98,26

   95,53

   101,61

Công nghiệp chế biến, chế tạo

100,98

   125,36

   125,10

Sản xuất và phân phối điện

95,14

   102,40

   116,23

Cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải

95,53

   100,60

   107,89


Tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp có đóng góp quan trọng đối với tăng trưởng toàn ngành công nghiệp thành phố trong tháng 11 và 11 tháng/2019:  
Ba doanh nghiệp thuộc tập đoàn LG Hải Phòng trong tháng 11/2019 sản xuất các sản phẩm như màn hình điện thoại, điện thoại cao cấp, modun máy ảnh… giảm do nhiều đơn hàng lớn đã thực hiện xong cùng với việc dây chuyền sản xuất cho sản phẩm mới chưa đi vào ổn định, tuy nhiên hàng triệu sản phẩm điện tử dân dụng vẫn giữ mức sản xuất ổn định. Dự kiến 11 tháng/2019, doanh thu của tập đoàn LG Hải Phòng tăng 39% so cùng kỳ, thu hút và tạo việc làm cho hơn 18 nghìn lao động.
Ngành sản xuất thiết bị điện 11 tháng/2019 tăng 292,8% so với cùng kỳ, với các sản phẩm chủ yếu như bộ máy phát điện tuabin gió và các linh kiện hệ thống điều khiển điện, tuy nhiên tháng 11/2019 sản xuất và tiêu thụ giảm do thị trường tiêu thụ sản phẩm bắt đầu bước vào mùa lạnh.
Sản xuất xi măng 11 tháng/2019 tiếp tục duy trì được tốc độ tăng, tăng 1,81% so cùng kỳ, tuy nhiên tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xi măng đang gặp khó khăn do nhu cầu nội địa thấp, các doanh nghiệp tiếp tục tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
Sản xuất sắt thép 11 tháng/2019 trên địa bàn dự kiến tăng 10,69%, tiêu thụ tăng 4,23% so cùng kỳ. Hầu hết các doanh nghiệp thép sản xuất đủ ngày, sản lượng sản xuất và tiêu thụ ổn định.
Sản xuất và phân phối điện 11 tháng/2019 ước tăng 16,23%, tháng 11/2019 lượng điện giao nhận giảm nhẹ do ¼ tổ máy tạm ngừng hoạt động để sửa chữa. Tính chung 11 tháng/2019, lượng điện giao nhận ước tăng 16,66% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó ngành công nghiệp thành phố 11 tháng/2019 ghi nhận tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp ở những ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn giảm so cùng kỳ năm trước hoặc có tốc độ tăng thấp so với cùng kỳ, cụ thể: 
Sản xuất hàng may mặc 11 tháng/2019 tăng 12,22% so cùng kỳ (11 tháng/2017 tăng 171,84%, 11 tháng/2018 tăng 47,42%), mặc dù vẫn đạt tốc độ tăng trưởng dương nhưng đóng góp trong tăng trưởng chung giảm đi nhiều, các nhà máy có quy mô lớn sản xuất đã ổn định không còn mang tính đột biến. Các doanh nghiệp may mặc quy mô nhỏ hơn hiện tại đơn hàng khá ổn định và có xu hướng tăng so với cùng kỳ.
Sản xuất giầy dép 11 tháng/2019 giảm 2,56% so cùng kỳ do một số doanh nghiệp gia công giầy dép lớn nhận nhiều đơn hàng khó, thời gian hoàn thành lâu hơn; một vài doanh nghiệp do công nghệ máy móc cũ, không đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn cao của các đơn hàng lớn; số còn lại do thiếu đơn hàng, lao động giảm làm ảnh hưởng đến tăng trưởng chung toàn ngành năm 2019.
 Sản xuất phân bón tăng mạnh do giá bán xuất khẩu có xu hướng xuống thấp nên phải tập trung tiêu thụ trong nước. Tính chung 11 tháng/2019 sản lượng sản xuất giảm 16,72% so với cùng kỳ, tồn kho vẫn ở mức cao.
Ngoài ra một số ngành cũng có chỉ số sản xuất 11 tháng/2019 giảm so với cùng kỳ như sản xuất bê tông giảm 33,71%; sản xuất bia giảm 16,81%; sản xuất đồ chơi giảm 57,03%; sản xuất thuốc lá giảm 18,14%...
 * Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2019 tăng 1,5% so với tháng trước nhưng giảm 5,17% so với cùng kỳ năm trước, cộng dồn 11 tháng/2019 chỉ số tiêu thụ tăng 1,1%, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao so cùng kỳ: sản xuất đồ gỗ xây dựng tăng 50,5%, sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 32,5%, sản xuất môtơ máy phát tăng 264,7% ...
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất thiết bị truyền thông giảm 62,6%; sản xuất bia giảm 19,0%; sản xuất phân bón giảm 28,6%; sản xuất săm lốp cao su giảm 14,5%;
* Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 30/11/2019 ước tăng 8,54% so với tháng trước và tăng 20,31% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 15,64%; sản xuất phân bón tăng 156,4%; sản xuất trang phục tăng 220,34%, sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 4,81%, sản xuất kim loại tăng 6,28%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 221,97%...
* Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 30/11/2019 tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 6,2% so với cùng kỳ, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 11,1%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 18,2%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,6%. 
Chia theo ngành cấp I: ngành khai khoáng tăng 21,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,4%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,7%; ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý nước rác thải, nước thải tăng 1,0%. 
Trong 52 ngành cấp 4, một số ngành chỉ số sử dụng lao động tăng cao: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 30,3%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 35,6%, sản xuất trang phục tăng 14,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 4,2%; sản xuất thuốc hóa dược tăng 3,9%.
Một số ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm so cùng kỳ như: sản xuất đồ uống giảm 12,9%; sản xuất kim loại giảm 3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 14,4%.
* Một số sản phẩm công nghiệp ước 11 tháng năm 2019 so cùng kỳ: quần áo các loại đạt 131,26 triệu cái, tăng 7,33%; phân bón đạt 183,09 nghìn tấn, giảm 16,72%; màn hình khác đạt 10,16 triệu cái, tăng 34,59%; máy giặt đạt 1.329,31 nghìn cái, tăng 9,03%; lốp ô tô đạt 2.049,88 nghìn cái, giảm 15,62%; sắt, thép các loại đạt 1.380,73 nghìn tấn, tăng 13,77%; xi măng Portland đen đạt 4.394,58 nghìn tấn, tăng 1,81%; điện sản xuất đạt 6.670,02 triệu Kwh, tăng 16,66%.
2. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
 2.1. Nông nghiệp

* Trồng trọt
- Sản xuất vụ mùa
Tính đến trung tuần tháng 11 sản xuất vụ mùa đang trong giai đoạn thu hoạch rộ trên tất cả diện tích các loại cây trồng. Diện tích lúa vụ mùa đã thu hoạch đạt 32,3 nghìn ha, bằng 100% diện tích gieo cấy và bằng 92,17% so vụ mùa năm 2018; diện tích cây hàng năm khác đã thu hoạch đạt 5,4 nghìn ha, bằng 107,43% so với vụ mùa năm 2018.
Năng suất lúa vụ mùa năm 2019 ước đạt 57,43 tạ/ha, tăng 0,33% (+0,19 tạ/ha) so với vụ mùa năm trước. Năng suất lúa tăng là do vụ mùa năm nay có điều kiện thời tiết thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa, cơ cấu giống lúa ổn định, có sự dịch chuyển mở rộng diện tích những giống lúa có chất lượng tốt và năng suất cao, trình độ canh tác nông nghiệp ngày càng được nâng cao, kỹ thuật chăm sóc và bón phân có nhiều đổi mới đã hạn chế phát sinh sâu bệnh hại trên cây lúa, đặc biệt là bệnh bạc lá và cháy rầy... Sản lượng lúa vụ mùa 2019 ước đạt 185,7 nghìn tấn, bằng 92,47% so với vụ mùa năm 2018. Nhìn chung sản lượng lúa của tất cả các huyện có diện tích gieo cấy lúa lớn trong vụ mùa năm nay đều có xu hướng giảm do diện tích lúa giảm sâu. 
Nhóm cây lương thực, bên cạnh cây lúa năng suất cây ngô và cây khoai lang vẫn giữ được sự ổn định: khoai lang ước đạt 100,75 tạ/ha, bằng 100,6% so với vụ mùa năm trước; ngô ước đạt 51,61 tạ/ha, bằng 100,43%. Sản lượng cây ngô ước đạt 1.184,5 tấn, giảm 19 tấn; cây khoai lang ước đạt 592,1 tấn, giảm 60,4 tấn so với vụ mùa năm 2018.
Nhóm cây rau các loại năng suất ước đạt 231,0 tạ/ha, bằng 101,59% (+3,6 tạ/ha) so vụ mùa năm trước, trong đó: rau muống đạt 267,34 tạ/ha, bằng 102,04%; cải xanh đạt 210,95 tạ/ha, bằng 102,64%; cây dưa hấu ước đạt 286,26 tạ/ha, bằng 102,18%; cây bí xanh ước đạt 217,01 tạ/ha, bằng 102,49%,... Sản lượng rau các loại ước đạt 99.641 tấn, bằng 109,42% (+8.581,7 tấn) so với vụ mùa năm trước, trong đó: nhóm rau lấy lá đạt 51.793,2 tấn, tăng 10.521,3 tấn; nhóm dưa lấy quả đạt 8.630,5 tấn, tăng 1.894,2 tấn; nhóm cây rau họ đậu đạt 1.841,7 tấn, tăng 271,5 tấn; nhóm cây rau lấy quả đạt 10.781,8 tấn, tăng 1.079,3 tấn...
- Sản xuất vụ đông 2019-2020
Đến trung tuần tháng 11/2019 diện tích gieo trồng cây vụ đông ước đạt 5,2 nghìn ha, bằng 69,41% so với tổng diện tích gieo trồng cây vụ đông năm 2018. Trong thời gian tới với điều kiện thời tiết thuận lợi nhiều chân ruộng màu trồng cây vụ đông sẽ tiếp tục được làm đất, vun luống và triển khai gieo trồng mở rộng diện tích.
Trên những diện tích đã gieo trồng các loại cây vụ đông sinh trưởng phát triển thuận lợi: cây cà chua, bí xanh, dưa chuột đang trong giai đoạn phát triển thân lá và ra hoa; cây rau bắp cải, củ đậu, khoai tây đang trong giai đoạn phát triển thân lá… Một số đối tượng sinh vật gây hại chính như: sâu keo mùa thu, sâu đục thân, bệnh đốm lá gây hại rải rác trên cây ngô; bọ trĩ, nhện trên cây ớt; bệnh đốm lá trên cây rau bắp cải; hiện tượng héo xanh trên cây cà chua; các đối tượng sinh vật gây hại và sâu bệnh trên cây trồng ở mức độ thấp với tổng diện tích nhiễm ước khoảng 6 ha.
* Chăn nuôi 
Ước tính thời điểm 01/11/2019, tổng đàn trâu toàn thành hiện có đạt 4.756 con, giảm 7,65% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò đạt 11.540 con, giảm 9,37%. Hiện nay chăn nuôi gia cầm toàn thành hiện phát triển khá mạnh với tổng đàn ước đạt 9,3 triệu con, tăng 13,29% so với cùng kỳ năm trước; trong đó đàn gà đạt 7,2 triệu con, tăng 11,23%. Đàn gia cầm tăng cao là do nhu cầu tiêu dùng tăng vào dịp cuối năm, bên cạnh đó do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi đã dẫn đến sự chuyển đổi đối tượng nuôi từ nuôi lợn sang gia cầm.
 Do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi, tổng đàn lợn toàn thành hiện có ước đạt 112,34 nghìn con, bằng 26,8% so với cùng kỳ năm 2018. Giai đoạn hiện nay việc tái đàn tại vùng có dịch, vùng bị uy hiếp, vùng đệm và sau dịch được quy định chặt chẽ theo Luật Thú y 2015 nên các hộ chăn nuôi hiện đã có tái đàn tuy nhiên mức độ chưa cao và chủ yếu ở mức thăm dò, bên cạnh đó một số hộ chăn nuôi cũng có nhu cầu tái đàn nhưng thiếu vốn, do nguồn giống đảm bảo gặp nhiều khó khăn và giá rất cao (>1 triệu đồng/1con, gấp 2 lần cùng kỳ năm 2018). Để đáp ứng nhu cầu thị trường đàn nái đã bắt đầu được gây lại phục vụ nguồn lợn giống khan hiếm hiện nay và nhu cầu tái đàn của chính các hộ hiện đang chăn nuôi, cùng đó giá lợn hơi tiếp tục tăng theo ngày do nguồn cung khan hiếm cũng là yếu tố thúc đẩy người chăn nuôi duy trì và tái đàn sản xuất. 
Nguồn cung lợn giống hiện khan hiếm đã đẩy giá lợn giống trong tháng 11 tiếp tục tăng 8,51% so với tháng 10/2019. Đối với thức ăn chăn nuôi, giá sản phẩm hỗn hợp và đậm đặc đều ổn định.
Giá sản phẩm ngành chăn nuôi hiện nay nhìn chung đảm bảo cho người chăn nuôi có lãi. Giá lợn hơi xuất chuồng tăng khoảng 20,8% so với tháng 10/2019; dự báo giá còn tiếp tục tăng vào những tháng cuối năm. Giá thịt hơi gia cầm thời điểm hiện tại cũng có xu hướng tăng mạnh do nguồn cung lợn thịt trong nước khan hiếm, giá lợn hơi tăng đã kéo theo giá thịt hơi gia cầm tăng.
* Tình hình dịch bệnh: Tính đến 16h ngày 24/11/2019, dịch xảy ra tại 19.211 hộ, thuộc 13 huyện, quận: Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Dương, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, An Lão, Cát Hải, Dương Kinh, Hải An, Kiến An, Đồ Sơn, Hồng Bàng và Lê Chân (gồm 12 hộ nuôi quy mô từ 300 con trở lên, 378 hộ nuôi quy mô từ 50-300 con và 18.821 hộ nuôi quy mô dưới 50 con). Số lợn tiêu hủy 182.911 con (gồm 31.759 con lợn nái, 426 con lợn đực giống, 97.198 con lợn thịt, 53.528 con lợn con), chiếm 44,59% tổng đàn trước dịch; trọng lượng 9.719 tấn. 
Đối với công tác hỗ trợ các hộ bị tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi tính đến ngày 01/11/2019 đã hỗ trợ 338,7 tỷ đồng tương ứng với 9.436,47 tấn lợn bị tiêu hủy.
2.2. Lâm nghiệp
Ước tính tháng 11 năm 2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 100 m3, bằng 78,1% so với  cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 4.077 ste bằng 93,7%. Ước 11 tháng/2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 1.501,3 m3, bằng 81,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 43.455 ste, bằng 94%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 200 nghìn  cây, bằng 96,2%. Diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 56,77 ha. 
Mặc dù công tác bảo vệ, phòng cháy chữa cháy rừng luôn được các cấp, ngành tích cực quan tâm, chỉ đạo nhưng do ý thức của một số người dân chưa tốt nên trong tháng khi thời tiết chuyển mùa hanh khô đã xảy ra 05 vụ cháy rừng tại huyện Thủy Nguyên và quận Đồ Sơn với tổng diện tích bị cháy là 4,74 ha. Tuy nhiên diện tích cháy chủ yếu là thảm cỏ, thảm thực bì nên không ảnh hưởng đến diện tích rừng hiện có, một số cây to như keo, thông bị táp lá nên vẫn có khả năng phục hồi. Tính đến ngày 15/11/2019 toàn thành xảy ra 09 vụ cháy rừng với tổng diện tích rừng bị cháy là 6,92ha.
 2.3. Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 11 năm 2019 ước đạt 13.924,9 tấn, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 11 tháng năm 2019, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản đạt 154.931,2 tấn, tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước.
* Nuôi trồng 
Diện tích nuôi trồng thủy sản 11 tháng/2019 ước đạt 15.089,5 ha, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 9.866,6 ha, tăng 9,13%, tôm các loại đạt 3.545,1 ha, giảm 2,47%; thủy sản khác đạt 1.677,8 ha, tăng 6,63%. 
Sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch tháng 11/2019 ước đạt 5.307,2 tấn, tăng 7,43% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 3.684,3 tấn, tăng 0,42%; tôm các loại đạt 343,8 tấn, giảm 1,26%; thủy sản khác đạt 1.279,1 tấn, tăng 38,55%. Tính chung 11 tháng/2019 sản lượng thủy sản nuôi trồng khai thác ước đạt 62.386,9 tấn, tăng 8,16% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 40.309,7 tấn, tăng 3,1%; tôm các loại đạt 4.639,8 tấn, giảm 2,17%; thủy sản khác đạt 17.437,4 tấn, tăng 26%.
Khu vực nuôi nước ngọt tiếp tục thu hoạch sản phẩm xuất bán, chủ động các biện pháp phòng tránh rét, phòng bệnh trong giai đoạn chuyển mùa, tích cực chăm sóc đàn thủy sản nuôi thương phẩm phục vụ nhu cầu dịp Tết, khu vực nuôi nước lợ thu tỉa và thả bù con giống tôm sú, tôm rảo, cua biển… tại các đầm nuôi quảng canh cải tiến; tập trung chăm sóc các đối tượng thả nuôi vụ mới. Tại các diện tích đã thả nuôi tôm chân trắng 40 - 50 ngày, tôm phát triển bình thường, kích cỡ trung bình đạt 170 - 200 con/kg. Một số đầm nuôi tôm thẻ chân trắng đã áp dụng công nghệ nuôi tôm hai giai đoạn, con giống đạt kích cỡ lớn (300 - 400 con/kg) trước khi thả nuôi, rút ngắn thời gian, hạn chế rủi ro trong quá trình nuôi.
Tại các bãi nuôi nhuyễn thể tiến hành san thưa, rải đều ngao tại các vị trí bị sóng đánh dồn cục bộ, thu hoạch sản phẩm đạt kích cỡ thương phẩm. Khu vực nuôi cá lồng bè vẫn chủ động xuất bán sản phẩm tươi sống phục vụ nhu cầu tiêu dùng; tích cực chăm sóc đàn thủy sản nuôi để thu hoạch dịp cuối năm.  
Khu vực sản xuất giống thủy sản nước ngọt tập trung chăm sóc, nuôi vỗ đàn cá bố mẹ; các trại giống nước mặn lợ có đầu tư hệ thống năng nhiệt tiếp tục cho sinh sản cua biển, tôm sú, tôm rảo,… phục vụ nhu cầu thả bù của các đầm nuôi trồng thủy sản mặn lợ, sản lượng con giống sản xuất trong 11 tháng/2019 ước đạt 1.860,7 triệu con giống các loại tăng 6,37% so cùng kỳ 2018.
Theo dự báo của trung tâm khí tượng thủy văn trung ương, trong tháng 11/2019, các đợt không khí lạnh sẽ tràn xuống khá đều đặn, trung bình 1 tuần sẽ có 1 đợt gió mùa Đông Bắc mới, gây giảm nhiệt độ không khí, có thể ảnh hưởng tới sức khỏe của đàn thủy sản nuôi.
* Khai thác 
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 11/2019 ước đạt 8.617,7 tấn, tăng 13,49% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại 4.959 tấn, tăng 16,08%; tôm các loại đạt 845,8 tấn, tăng 7,5%; thủy sản khác đạt 2.812,9 tấn, tăng 11%. Ước tính 11 tháng/2019 sản lượng thủy sản khai thác đạt 92.544,3 tấn, tăng 6,35% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 52.165,3 tấn, tăng 7,8%; tôm các loại đạt 8.467,6 tấn, tăng 3,51%; thủy sản khác đạt 31.911,4 tấn, tăng 4,81% (sản phẩm khai thác thủy sản của thành phố chủ yếu từ khai thác biển với tỷ trọng chiếm trên 95% tổng sản lượng khai thác). 
Theo dự báo, thời tiết trong tháng 11 trên biển có chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ khu vực giảm mạnh ảnh hưởng tới hoạt động khai thác thủy sản, ngư trường có khả năng khai thác cao với nghề lưới chụp không xuất hiện tập trung, nghề lưới rê và các nghề khác tập trung khai thác các loại hải sản ở 02 khu vực Tây Bắc và Tây Nam Bạch Long Vỹ vùng biển vịnh Bắc Bộ với các loài tầng đáy.
 3. Đầu tư xây dựng
Dự tính vốn đầu tư thực hiện 11 tháng/2019 là 9.153,9 tỷ đồng, tăng 3,08% so cùng kỳ. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước 7.239,9 tỷ đồng, giảm so với cùng kỳ 6,24%;
    - Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước 1.346,3 tỷ đồng, tăng so cùng kỳ 51,08%;
    - Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước 567,7 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 111,88%.
Tình hình vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý ước thực hiện tháng 11/2019 đạt 1.236,8 tỷ đồng, tăng 9,15% so với tháng trước, tăng 14,57% so với cùng kỳ; ước 11 tháng/2019 đạt 9.153,9 tỷ đồng, tăng 3,08% so với cùng kỳ.
Trong 10 tháng đầu năm công tác giải ngân vốn đầu tư công đạt tỷ lệ thấp (54,4%). Thời gian qua do việc sắp xếp và tổ chức lại các Ban quản lý dự án kéo dài cũng phần nào ảnh hưởng tới việc giải ngân vốn ngân sách và ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ thực hiện của các dự án. Trong đó có những dự án giá trị thực hiện trong năm 2019 được bố trí nghìn tỷ đồng nhưng việc giải ngân chậm trễ làm cho công tác giải phóng mặt bằng phần nào bị chậm, phía nhà thầu không có mặt bằng để thi công. 
Đóng góp khoảng 70% vào tổng vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý là nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố. Dự kiến tháng 11 nguồn vốn này tăng hơn so với tháng 10 do thành phố tập trung đẩy mạnh dự án chỉnh trang các tuyến phố trên địa bàn thành phố Hải Phòng thực hiện từ 18/10 đến hết 31/12/2019 với tổng vốn đầu tư là 512 tỷ đồng từ ngân sách thành phố.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố dự kiến tháng 11 đạt 797,5 tỷ đồng, tăng 8,73% so với cùng kỳ. Nguồn vốn trung ương hỗ trợ có mục tiêu và nguồn vốn ODA vẫn giảm so với cùng kỳ. Phần lớn vốn trung ương hỗ trợ có mục tiêu năm 2019 bố trí cho các dự án đã quyết toán nên khối lượng thực hiện từ những nguồn vốn này không cao và giảm đi so với cùng kỳ. Một số dự án được thực hiện bằng nguồn vốn này như dự án thoát nước mưa, nước thải và quản lý chất thải rắn thành phố Hải Phòng giai đoạn 1; dự án giao thông đô thị thành phố Hải Phòng tiến độ rất chậm, tình hình giải ngân vốn còn chưa được kịp thời, chủ đầu tư đang xin gia hạn hợp đồng. Ngoài ra, còn một số dự án ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài cũng trong tình trạng thiếu vốn và giải ngân chậm như dự án tăng cường quản lý đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai.
Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện trong tháng 10 và ước tháng 11 vẫn tăng cao, lần lượt tăng 8,26% và 51,08% so với cùng kỳ. Một loạt các tuyến đường liên thôn, liên phường, các công trình giáo dục, trụ sở xã, phường được nâng cấp, xây dựng ở các quận huyện trong chương trình nông thôn mới.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/11/2019 Hải Phòng có 684 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư      :  17.661,52 triệuUSD
Vốn điều lệ              :    6.225,95 triệu USD
Vốn Việt Nam góp  :     242,71 triệu USD
Nước ngoài góp       :    5.983,24 triệu USD
Tính từ đầu năm đến 15/11/2019 toàn thành phố có 76 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư 532,62 triệu USD và 43 dự án điều chỉnh tăng vốn với số vốn tăng là 673,53 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. 
Từ nửa cuối tháng 10 đến 15/11/2019 có 5 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 37,67 triệu USD. Điều chỉnh tăng vốn có 5 dự án với số vốn tăng là 50,1 triệu USD. Đối với dự án cấp mới, đáng kể nhất là Dự án Power 7 Technology Việt Nam với số vốn đăng ký mới là 19,5 triệu USD và điều chỉnh tăng vốn là Dự án công ty TNHH  Chiyoda Việt Nam với số vốn điều chỉnh tăng là 35 triệu USD.
Có 13 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động trong đó 5 dự án do hết thời hạn dự án, 1 dự án thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư do vi phạm pháp luật về đầu tư, 7 dự án nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động dự án trước thời hạn.
4. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tháng 11/2019 là thời điểm bắt đầu mùa mua sắm cuối năm, các siêu thị, cửa hàng bán lẻ có nhiều chương trình khuyến mãi nhằm giải phóng hàng tồn và hoàn tất kế hoạch năm. Đặc biệt, trong tháng 11 có ngày Single Day, Black Friday là một trong những ngày hội mua sắm lớn tại nước ngoài hiện được phổ biến rộng rãi tại Việt Nam và thành phố Hải Phòng. Ngoài ra trong tháng có ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, nhiều đơn vị bán lẻ trong toàn thành phố triển khai các chương trình giảm giá tại cửa hàng, siêu thị và kênh thương mại điện tử, thu hút đông đảo người tiêu dùng trên địa bàn thành phố mua sắm. 
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 năm 2019 ước đạt 11.752,3 tỷ đồng, tăng 2,08% so với tháng trước và tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 11 tháng/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 120.574,2 tỷ đồng, tăng 14,67% so với cùng kỳ năm trước. 
* Doanh thu chia theo ngành hoạt động

Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ

 

 Ước tháng 11/2019 (Tỷ đồng)

 Cộng dồn 11 tháng 2019 (Tỷ đồng)

 

Ước tháng 11/2019 so với tháng trước (%)

Ước tháng 11/2019 so với tháng cùng kỳ năm trước (%)

Cộng dồn 11 tháng 2019 so với cùng kỳ năm trước (%)

Tổng số

11.752,34

120.574,20

 

102,08

114,15

114,67

Bán lẻ hàng hóa

9.066,07

93.818,80

 

101,77

116,05

115,05

Dịch vụ lưu trú

160,00

1.748,00

 

91,61

128,97

120,02

Dịch vụ ăn uống

1.664,10

16.795,44

 

105,20

105,71

113,92

Du lịch lữ hành

17,56

197,81

 

101,97

103,49

107,69

Dịch vụ khác

844,61

8.014,15

 

101,67

109,96

110,95



- Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 11 năm 2019 ước đạt 9.066,1 tỷ đồng, tăng 1,77% so với tháng trước, tăng 16,05% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 11 tháng/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 93.818,8 tỷ đồng, tăng 15,05% so với cùng kỳ năm trước;
Các ngành hàng có ước tính doanh thu tháng 11/2019 tăng so với tháng trước là ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 1,30%; ngành may mặc tăng 3,25%; ngành đồ dùng trang thiết bị gia đình tăng 1,19%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 0,13%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 8,2%; ô tô con tăng 3,21%; phương tiện đi lại tăng 2,12%; xăng dầu các loại tăng 0,46%, đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 5,0%.... Trong tháng có ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, các siêu thị, cửa hàng bán lẻ đều có nhiều chương trình khuyến mại để kích cầu mua sắm. Bên cạnh đó nhu cầu xây dựng tăng cao nên sức mua của thị trường vật liệu xây dựng dự tính tiếp tục tăng đáng kể; đồng thời tháng 11 là tháng cận kề cuối năm nên nhu cầu về lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, ô tô con và phương tiện đi lại, đá quý, kim loại quý và sản phẩm… trên đà tăng cao.
Tính chung 11 tháng/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 15,05% so với cùng kỳ năm 2018. Các nhóm ngành hàng có doanh thu tăng khá cao so với cùng kỳ là nhóm ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 12,49%; hàng may mặc tăng 15,08%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 18,20%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 20,67%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 9,57%; phương tiện đi lại tăng 17,48%; xăng dầu tăng 24,19%; nhiên liệu khác tăng 11,93%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 19,95%...
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 11 năm 2019 ước đạt 160,0 tỷ đồng, giảm 8,39% so với tháng trước và tăng 28,97% so với cùng kỳ năm trước; 11 tháng/2019 ước đạt 1.748,0 tỷ đồng, tăng 20,02% so với cùng kỳ năm trước. 
        - Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 11 năm 2019 ước đạt 1.664,1 tỷ đồng, tăng 5,2% so với tháng trước và tăng 5,71% so với cùng kỳ năm trước; 11 tháng/2019 ước đạt 16.795,4 tỷ đồng, tăng 13,92% so với cùng kỳ năm trước. 
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 11 năm 2019 ước đạt 17,56 tỷ đồng, tăng 1,97% so với tháng trước, tăng 9,96% so với cùng kỳ năm trước; 11 tháng/2019 ước đạt 197,8 tỷ đồng, tăng 7,69% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 11 năm 2019 ước đạt 844,6 tỷ đồng, tăng 1,67% so với tháng trước, tăng 9,96% so với cùng kỳ năm trước; 11 tháng/2019 ước đạt 8.014,15 tỷ đồng, tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước;
Tháng 11, hoạt động dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 5,98% so với tháng trước do thời tiết chuyển mùa nên phát sinh nhiều dịch bệnh, đối tượng mắc bệnh chủ yếu ở người già và trẻ nhỏ; hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân khác tăng 15,73% so với tháng trước do gần thời điểm cuối năm nên nhu cầu uốn tóc, làm đẹp tăng mạnh, các cửa tiệm đông khách hơn các tháng trước. Vào dịp cuối năm, nhu cầu về nhà ở tăng hơn nên dịch vụ kinh doanh bất động sản tháng 11/2019 tăng 1,46% so với tháng trước.
5. Hoạt động lưu trú và lữ hành    
Tổng lượt khách tháng 11 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 741,48 nghìn lượt, giảm 8,72% so với tháng trước và tăng 15,16% so với cùng tháng năm 2018; trong đó khách quốc tế đạt 82,6 nghìn lượt, giảm 4,63% so với tháng trước.
Cộng dồn 11 tháng đầu năm 2019, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 8.409,1 nghìn lượt, tăng 16,17% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó khách quốc tế đạt 916,6 nghìn lượt, tăng 16,69% so với cùng kỳ năm trước.
Lượng khách lưu trú trên địa bàn thành phố giảm do thời tiết chuyển lạnh nên nhu cầu du lịch biển giảm.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành tháng 11 năm 2019 đạt 10,7 nghìn lượt, tăng 3,47% so với tháng trước. Để kích cầu du lịch, các doanh nghiệp lữ hành đưa ra các tour du lịch giảm giá cộng với vé máy bay khuyến mại nhiều nên lượng khách lữ hành tăng. Cộng dồn 11 tháng/2019, lượt khách du lịch đạt 109,4 nghìn lượt, tăng 8,11% so với cùng kỳ. 
6. Vận tải hàng hóa và hành khách
6.1. Vận tải hàng hoá

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 11 năm 2019 ước đạt 18,4 triệu tấn, tăng 2,56% so với tháng trước và tăng 17,05% so với cùng tháng năm trước; ước tính 11 tháng/2019 đạt 185,2 triệu tấn, tăng 14,68% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 11 năm 2019 ước đạt 9.099,9 triệu tấn.km, tăng 0,72% so với tháng trước và tăng 18,03% so với cùng tháng năm trước; ước tính 11 tháng/2019 đạt 90.561,7 triệu tấn, tăng 5,23% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 11/2019 tăng so với tháng trước chủ yếu bởi khối vận tải hàng hóa đường bộ do các công trình đang được xây dựng gấp rút để kịp hoàn thành vào cuối năm nên các đơn vị vận chuyển vật liệu xây dựng nhận được nhiều đơn hàng hơn. 
6.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 11 năm 2019 ước đạt 5,9 triệu lượt, tăng 0,94% so với tháng trước, tăng 12,75% so với cùng tháng năm trước; ước tính 11 tháng/2019 đạt 63,7 triệu lượt, tăng 14,40% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 11 năm 2019 đạt 240,3 triệu Hk.km, tăng 1,38% so với tháng trước và tăng 12,44% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 11 tháng/2019 đạt 2.557,3 triệu lượt, tăng 12,48% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển tháng 11/2019 tăng so với tháng trước, chủ yếu bởi lượng hành khách đường bộ do trong tháng nhu cầu đi lại bằng xe khách, taxi tăng cao.
6.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Dịch vụ kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11 năm 2019 ước đạt 2.689,5 tỷ đồng, tăng 3,21% so với tháng trước và tăng 14,08% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 11 tháng/2019 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 27.681,4 tỷ đồng, tăng 16,04% so với cùng kỳ năm trước.
6.4. Sân bay Cát Bi
Tháng 11 năm 2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 29 tỷ đồng, tăng 1,23% so với tháng trước; tăng 31,25% so với cùng tháng năm trước; 11 tháng/2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 282,36 tỷ đồng, tăng 25,23% so với cùng kỳ năm trước. 
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 11 năm 2019 ước đạt 1.565 chuyến, tăng 2,96% so với tháng 10/2019, tăng 32,85% so với cùng tháng năm 2018; 11 tháng/2019 số lần máy bay hạ, cất cánh đạt 15.579 chuyến, tăng 18,71% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chuyến bay ngoài nước tháng 11/2019 ước đạt 175 chuyến, với ước tính trên 20 nghìn lượt hành khách thông qua. Sân bay Cát Bi hiện đã tăng thêm 01 chuyến bay quốc tế Hải Phòng – Côn Minh hàng ngày để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của người dân.
Tổng số hành khách tháng 11 năm 2019 ước đạt 224 nghìn lượt người, tăng 0,14% so với tháng trước, tăng 17,42% so với cùng tháng năm 2018; 11 tháng/2019 tổng số hành khách ước đạt 2.415,58 nghìn lượt, tăng 11,18% so với cùng kỳ năm trước. 
Tổng số hàng hóa tháng 11 năm 2019 ước đạt 1,60 nghìn tấn, tăng 0,95% so với tháng trước, giảm 7,46% so với cùng tháng năm 2018; 11 tháng/2019 tổng số hàng hóa thông qua đạt 17,87 nghìn tấn, tăng 16,58% so với cùng kỳ năm trước. Hàng hóa đến và đi hiện nay đa dạng nhiều chủng loại như hải sản, hàng thực phẩm, bánh kẹo, quần áo và hàng tiêu dùng khác.
7. Hàng hoá thông qua cảng 
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 11 năm 2019 ước đạt 12.716,7 nghìn TTQ, tăng 0,92% so với tháng trước và tăng 23,98% so với cùng kỳ năm trước. 
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 3.355,5 nghìn TTQ, tăng 0,05% so với tháng trước, tăng 3,53% so với cùng kỳ, trong đó: 
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước Trung ương ước đạt 3.348 nghìn TTQ, tăng 0,20% so với tháng trước, tăng 3,63% so với cùng kỳ.
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương ước đạt 7,5 nghìn TTQ, giảm 40,56% so với tháng trước, giảm 27,80% so với cùng kỳ. 
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 9.361,2 nghìn TTQ, tăng 1,24% so với tháng trước và tăng 33,43% so với cùng kỳ năm trước.
Cộng dồn 11 tháng/2019, sản lượng hàng hóa thông qua cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 115.697 nghìn TTQ, tăng 17,78% so với cùng kỳ năm trước.
* Doanh thu cảng biển tháng 11 năm 2019 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 440,2 tỷ đồng, giảm 11,87% so với cùng kỳ. Cộng dồn 11 tháng/2019, doanh thu khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 4.978,8 tỷ đồng, tăng 4,66% so với cùng kỳ năm trước. 
8. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 11 năm 2019 tăng 0,95% so với tháng trước, tăng 3,61% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,86% so với tháng 12/2018. CPI bình quân 11 tháng đầu năm 2019 tăng 2,39% so với cùng kỳ năm trước.
 Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 7 nhóm có chỉ số giá tháng 11/2019 tăng so với tháng trước với mức tăng như sau: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,63%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,13%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,74%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,16%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,09%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,07% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,13%. Có 02 nhóm có chỉ số giá không đổi là nhóm giáo dục và nhóm bưu chính viễn thông. 02 nhóm còn lại có chỉ số giá giảm là nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,29% và nhóm giao thông tăng 0,64%.
Nguyên nhân chính làm tăng CPI tháng 11 là do chỉ số giá nhóm thực phẩm tăng 3,96% làm cho cho CPI chung tăng 0,90%, trong đó giá thịt lợn tăng 18,46% làm cho CPI chung tăng 0,74%. Bên cạnh đó cũng có yếu tố làm giảm CPI tháng 11 là giá điện sinh hoạt giảm 2,67% làm cho CPI chung giảm 0,05%; chỉ số giá xăng dầu diesel giảm 1,69% làm cho CPI chung giảm 0,05%...
* Chỉ số giá vàng 99,99% và Đô la Mỹ: 
- Chỉ số giá vàng tháng 11/2019 giảm 0,38% so với tháng trước, tăng 18,78% so với cùng tháng năm 2018, tăng 18,34% so với tháng 12 năm trước. Giá vàng bình quân tháng 11/2019 dao động ở mức 4,200 triệu đồng/chỉ, giảm 16.000 đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2019 giảm 0,01% so với tháng trước, giảm 0,49% so với cùng tháng năm 2018, giảm 0,43% so với tháng 12 năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 11/2019 dao động ở mức 23.257 đồng/USD, giảm 2 đồng/USD.
9. Hoạt động tài chính, ngân hàng 
9.1. Tài chính

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 11 năm 2019 ước đạt 7.337,6 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa đạt 2.217,1 tỷ đồng; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 5.000 tỷ đồng. Ước 11 tháng/2019 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 79.761,7 tỷ đồng, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 22.967,2 tỷ đồng, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 55.401,7 tỷ đồng, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 11 tháng/2019, trong số thu nội địa: thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 2.544,9 tỷ đồng, giảm 6,2% so cùng kỳ năm trước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4.224,9 tỷ đồng, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 4.592,6 tỷ đồng, tăng 24,2% so cùng kỳ năm trước... 
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 11 năm 2019 ước đạt 2.440,5 tỷ đồng; ước 11 tháng/2019 đạt 17.078,4 tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi đầu tư phát triển trong chi cân đối ngân sách địa phương đạt 6.897 tỷ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước, chi thường xuyên đạt 8.998,7 tỷ đồng, tăng 9,4% so cùng kỳ năm trước.
9.2. Ngân hàng
* Công tác huy động vốn:
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến hết tháng 11 năm 2019 đạt 206.247 tỷ đồng, tăng 12,89% so với cùng kỳ năm trước, tăng 11,92% so với cuối năm 2018.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 193.373 tỷ đồng, tăng 12,27% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 93,75%; ngoại tệ ước đạt 12.874 tỷ đồng, tăng 23,13% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 6,25%. 
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 142.449 tỷ đồng, tăng 10,93% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 69,07%; tiền gửi thanh toán ước đạt 59.829 tỷ đồng, tăng 18,08% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 29%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 3.969 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,93%.
* Công tác tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay đến hết tháng 11 năm 2019 đạt 127.143 tỷ đồng, tăng 14,08% so với cùng kỳ năm trước, tăng 12,98% so với năm 2018.
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND đạt 118.902 tỷ đồng, tăng 13,22%  so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 93,52%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 8.241 tỷ đồng, tăng 28,25% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 6,48%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 54.883 tỷ đồng, tăng 11,94% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 43,16%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 72.260 tỷ đồng, tăng 15,77% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 56,84%. 
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội

* Công tác Lao động, việc làm
Tháng 11 năm 2019, sàn giao dịch việc làm thành phố tổ chức 04 phiên giao dịch việc làm, với 120 lượt doanh nghiệp tham gia tuyển dụng, nhu cầu tuyển dụng là 4.460 lượt lao động; ước cấp mới 80 giấy phép lao động, cấp lại 100 giấy phép lao động, miễn cấp 26 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể được 08 doanh nghiệp; hướng dẫn, thẩm định và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 18 doanh nghiệp. 
Bên cạnh đó, thành phố đã giải quyết được 18 thủ tục hành chính về khai báo sử dụng thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về lao động. Tiếp tục điều tra cung cầu lao động năm 2019, kiểm tra công tác an toàn vệ sinh lao động các công trình xây dựng, kiểm tra quản lý và sử dụng lao động là người nước ngoài làm việc tại Hải Phòng, triển khai Kế hoạch sử dụng vốn chương trình mục tiêu về việc làm, Kế hoạch giám sát cho vay Quỹ quốc gia giải quyết việc làm năm 2019.
Tính chung 11 tháng năm 2019, thành phố đã tổ chức được 40 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng của 1.239 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng 67.376 lượt lao động. Cung lao động tại sàn đạt 76.930 lượt người, gấp trên 1,14 lần nhu cầu tuyển dụng. Số lượng đăng ký bảo hiểm thất nghiệp trong 11 tháng đầu năm 2019 là 17.939 người (giảm 21,95% so với cùng kỳ), thành phố đã giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 17.481 người (tăng 27,2% so với cùng kỳ), với kinh phí hơn 300 tỷ đồng (tăng 43,55% so với cùng kỳ); hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể được 131 doanh nghiệp (bằng 106% so với cùng kỳ); hướng dẫn, thẩm định và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 123 doanh nghiệp (bằng 108% so với cùng kỳ). 
Đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn thành phố xảy ra 06 cuộc đình công với 3.674 người tham gia (tăng 01 cuộc và giảm 203 lao động so với cùng kỳ); xảy ra 13 vụ tai nạn làm 13 người chết (tăng 01 vụ và 01 người chết so với cùng kỳ).
* Công tác giáo dục nghề nghiệp
Tháng 11 năm 2019, triển khai Kế hoạch thực hiện Đề án "Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025"; thực hiện Kế hoạch số 56/KH-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
 Trong 11 tháng đầu năm 2019, thành phố thực hiện kiểm tra hoạt động giáo dục nghề nghiệp tại 12 cơ sở trên địa bàn. Tổng số tuyển sinh đào tạo nghề nghiệp trên toàn thành phố ước đạt 48.300 lượt học sinh, sinh viên, (đạt 94,7% kế hoạch năm và bằng 101%  so với cùng kỳ năm 2018); trong đó trình độ cao đẳng là 3.750, trung cấp là 4.980 học sinh, sinh viên; sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng là 39.570 học viên. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 82%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ từ 3 tháng trở lên ước đạt 33,8%.
* Công tác người có công
Tính đến tháng 11 năm 2019, thành phố đã tiếp nhận và tiến hành giải quyết theo đúng chế độ cho các đối tượng chính sách trên địa bàn như sau: Quyết định trợ cấp 1 lần và trợ cấp mai táng phí cho 2.445 trường hợp; trợ cấp hàng tháng 92 người; xác nhận miễn giảm tiền sử dụng đất theo Quyết định 118/QĐ-TTg: 60 trường hợp;  tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 19.068 trường hợp; công nhận, đề nghị công nhận 477 người có công đảm bảo đầy đủ, kịp thời và đúng quy định.
* Công tác giảm nghèo - bảo trợ xã hội
Tháng 11/2019, tiếp nhận 10 đối tượng vào các Trung tâm bảo trợ xã hội, tập trung được 35 lượt người lang thang trên địa bàn thành phố. Hoàn thành điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố năm 2019, tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội và một số chính sách trợ giúp xã hội trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2020-2025.   
Tính đến ngày 19/11/2019, số lượng các đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội là 764 người (bằng 107% so với cùng kỳ). Bên cạnh đó, thành phố đã thực hiện chi trả trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng và các chế độ hỗ trợ kinh phí đối với 74.825 người (tăng 2.671 đối tượng, tương ứng tăng 3,7% so với cùng kỳ). 
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Trong 11 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện cho 2.925 lượt người (bằng 103,43% so với cùng kỳ, bằng 108,30% so với kế hoạch năm), cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 334 người (bằng 92,26% so với cùng kỳ, bằng 108% so với kế hoạch năm). 
Đoàn kiểm tra liên ngành 178 thanh phố và Đội kiểm tra liên ngành 178 quận, huyện đã tăng cường phối hợp thực hiện kiểm tra liên ngành, kết quả đã tiến hành kiểm tra tại 1.275 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn..., trên cơ sở đó đã lập biên bản chuyển thanh tra chuyên ngành xử phạt 10 cơ sở vi phạm hành chính về lĩnh vực lao động và lĩnh vực văn hóa với số tiền 19 triệu đồng.
2. Giáo dục - Đào tạo
Các trường học, đơn vị tổ chức phong trào dạy tốt, học tốt, thi đua lập thành tích chào mừng 37 năm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/1982 – 20/11/2019 và kỷ niệm 64 năm ngày truyền thống ngành Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng.
Sở Giáo dục và Đào tạo tiến hành thanh tra, kiểm tra nền nếp, chuyên môn, kế hoạch năm học một số đơn vị giáo dục; tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi các môn văn hóa lớp 12 THPT và kỳ thi chọn học sinh giỏi tham dự đội tuyển học sinh giỏi quốc gia lớp 12 năm học 2019-2020.
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm 
* Công tác y tế dự phòng
Trong 11 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tập trung chỉ đạo các biện pháp phòng chống dịch bệnh, tăng cường giám sát chủ động tại các cơ sở y tế. 
Thành phố tiếp tục đẩy mạnh chỉ đạo, tổ chức tập huấn, khám sàng lọc, xử trí phản ứng sau tiêm phòng vắc xin nhằm đảm bảo an toàn trong tiêm chủng hàng tháng; kết quả triển khai vắc xin ComBe Five: tiêm được 836 trẻ, SII: 4.209 trẻ, có 361 trường hợp có phản ứng sau tiêm, 02 trẻ có phản ứng sốt cao >39 độ, 04 trẻ có phản ứng nặng, các trường hợp này đều đã được theo dõi và xử lý ổn định. 
* Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm
Triển khai giám sát mẫu đề án thức ăn đường phố: Đã kiểm tra 190 mẫu tại 10 phường mô hình điểm thức ăn đường phố kiểm nghiệm. 
Ngoài ra, thành phố chú trọng giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm các lễ hội, sự kiện của thành phố (Kế hoạch số 221/KH-ATTP và Quyết định số 121/QĐ-ATTP ngày 15/10/2019 kiểm tra an toàn thực phẩm trong kinh doanh dịch vụ ăn uống phục vụ tổ chức Lễ hội Bỉ tại Hải Phòng, Kế hoạch và Quyết định số 145/QĐ-ATTP ngày 01/11/2019 giám sát ATTP phục vụ đón, tiếp đón Đoàn đại biểu các tỉnh, thành phố về thăm và làm việc tại Hải Phòng...).
Nhìn chung, công tác an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố được bảo đảm, không để xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng nào trong thời gian qua.
4. Văn hóa - Thể thao
* Công tác văn hóa
Hoàn thiện Đề án sân khấu truyền hình Hải Phòng, thẩm định hồ sơ các di tích thành phố được công trợ kinh phí, các di tích trong chương trình mục tiêu quốc gia năm 2019. Chú trọng việc quy hoạch, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích quốc gia đặc biệt danh lam thắng cảnh quần đảo Cát Bà đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
* Công tác thể thao
Tính đến ngày 18/11/2019, đoàn vận động viên thể thao thành tích cao Hải Phòng đã tham gia thi đấu 121 giải quốc gia, quốc tế và khu vực, đạt 451 huy chương các loại (gồm 120 huy chương vàng, 119 huy chương bạc, 212 huy chương đồng). 
Ngoài ra, đoàn vận động viên Hải Phòng đã tham dự giải Cúp các Câu lạc bộ Khiêu vũ Thể thao toàn quốc năm 2019 tại Hải Dương và đã đạt được 01 huy chương vàng, 01 huy chương đồng. Tích cực chuẩn bị tổ chức đoàn cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên Vật và Boxing tham dự thi đấu giao hữu tại Trung Quốc trong thời gian tới.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 15/10/2019 đến ngày 14/11/2019, toàn thành phố xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 12 người và bị thương 04 người. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ tai nạn giao thông giảm 02 vụ, số người chết giảm 01 người và số người bị thương giảm 01 người. 
Cộng dồn từ đầu năm 2019 đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 89 vụ tai nạn giao thông, trong đó đường bộ 88 vụ, đường thủy 01 vụ. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 73 người và bị thương 39 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 04 vụ (tương ứng giảm 4,30%), số người chết giảm 08 người (tương ứng giảm 9,88%) và số người bị thương giảm 01 người (tương ứng giảm 2,50%). Nhìn chung trên địa bàn thành phố không xảy ra tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, chủ yếu do sự bất cẩn khi tham gia giao thông của người dân.
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 15/10/2019 đến ngày 14/11/2019 trên địa bàn thành phố Hải Phòng xảy ra 03 vụ cháy, không gây thiệt hại về người. Các vụ cháy đang trong quá trình xác minh làm rõ nguyên nhân và thống kê giá trị thiệt hại về tài sản. 
Tính chung từ đầu năm 2019, toàn thành phố đã xảy ra 71 vụ cháy (bằng 51,45% so với cùng kỳ năm 2018), làm 01 người chết (bằng 20%) và 06 người bị thương (bằng 66,67%), giá trị thiệt hại về tài sản ước tính là 123.630,5 triệu đồng. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục tăng cường phối hợp liên ngành để kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại các đơn vị, cơ sở trên toàn thành phố.

Tác giả: Cục Thống kê Hải Phòng

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây