Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, 9 tháng năm 2023 thành phố Hải Phòng
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 9, 9 THÁNG NĂM 2023
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1. Về tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn 9 tháng đầu năm năm 2023 ước tăng 10,08% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch tăng 12,7%-13%), đứng thứ 3 cả nước và thứ nhất vùng đồng bằng Sông Hồng. Trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,18%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,49%, đóng góp 5,77 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 10,93%, đóng góp 3,91 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,09%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm.
2. Hoạt động tài chính, ngân hàng
2.1 Tài chính
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 9/2023 ước đạt 7.737,3 tỷ đồng, bằng 96,24% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 3.000,1 tỷ đồng, bằng 131,84% so với cùng kỳ năm trước; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 4.701,3 tỷ đồng, bằng 81,29% so với cùng kỳ năm trước. Ước 9 tháng/2023 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 66.713,1 tỷ đồng, đạt 57,29% Dự toán Hội đồng nhân nhân thành phố giao và bằng 84,74% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 22.866,8 tỷ đồng, đạt 53,8% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và bằng 85,53% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 42.246,1 tỷ đồng, đạt 60,44% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố và bằng 83,49% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 9/2023 ước đạt 1.870,1 tỷ đồng, bằng 66,67% so với cùng kỳ năm trước. Ước 9 tháng/2023 tổng chi ngân sách địa phương đạt 20.658,4 tỷ đồng, đạt 52,23% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và bằng 121,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Tổng chi đầu tư phát triển đạt 11.083,8 tỷ đồng, đạt 50,35% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và bằng 140,91% so với cùng kỳ năm trước; chi thường xuyên đạt 9.306,7 tỷ đồng, đạt 64,07% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao và bằng 109,69% so với cùng kỳ năm trước.
2.2. Ngân hàng
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến 30/9/2023 đạt 313.313 tỷ đồng, tăng 14,51% so với cùng kỳ năm trước.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 298.493 tỷ đồng, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 95,27%; ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 14.820 tỷ đồng, tăng 9,03% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 4,73%.
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 191.784 tỷ đồng, tăng 17,53% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 61,21%; tiền gửi thanh toán ước đạt 116.557 tỷ đồng, tăng 11,53% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 37,2%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 4.972 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,59%.
Tổng dư nợ cho vay đến 30/9/2023 ước đạt 191.537 tỷ đồng, tăng 8,27% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND ước đạt 185.729 tỷ đồng, tăng 10,48% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 96,97%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 5.808 tỷ đồng, giảm 33,92% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 3,03%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 100.810 tỷ đồng, tăng 10,44% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 52,63%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 90.727 tỷ đồng, tăng 5,96% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 47,37%.
3. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Giá xăng, dầu tăng theo giá nguyên liệu thế giới; một số trường học tăng học phí năm 2023-2024 là những nguyên nhân chủ yếu làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2023 tăng 0,37% so với tháng trước; tăng 3,86% so với tháng 12/2022 và tăng 3,68% so với cùng kỳ năm trước.
CPI bình quân quý III năm 2023 tăng 3,32% so với quý III năm 2022. Bình quân 9 tháng năm 2023, CPI tăng 3,54% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 3,26% của 9 tháng năm 2022.
So với tháng trước, CPI thành phố Hải Phòng tháng 9/2023 tăng 0,37% (khu vực thành thị tăng 0,14%; khu vực nông thôn tăng 0,67%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 08 nhóm có chỉ số giá tăng, 03 nhóm giá giảm so với tháng trước.
So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 9/2023 tăng 3,68%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá và 02 nhóm giảm giá.
So với tháng 12/2022, CPI tháng 9/2023 tăng 3,86%, trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm hàng tăng giá.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý III năm 2023 tăng 3,32% so với cùng kỳ.
* Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ:
- Chỉ số giá vàng tháng 9/2023 tăng 0,44% so với tháng trước, tăng 6,39% so với tháng 12/2022 và tăng 10,34% so với cùng tháng năm trước. Giá vàng bình quân tháng 9/2023 dao động ở mức 5,73 triệu đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2023 tăng 1,63% so với tháng trước, tăng 0,44% so với tháng 12/2022 và tăng 2,69% so với cùng tháng năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 9/2023 dao động ở mức 24.351 đồng/USD, tăng 389,8 đồng/USD. Bình quân 9 tháng năm 2023, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tăng 2,53%.
4. Đầu tư
Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn thành phố 9 tháng đầu năm ước đạt 134.050,2 tỷ đồng, tăng 12,25% so với cùng kỳ, trong đó: khu vực vốn nhà nước có mức tăng cao nhất, tăng 38,87%, chiếm cơ cấu 13,10%; khu vực ngoài nhà nước tăng 10,36%, đây là khu vực có đóng góp nhiều nhất trong mức tăng trưởng chung với cơ cấu chiếm 52,29%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,23% so với cùng kỳ, chiếm cơ cấu 34,61%.
Vốn đầu tư khu vực Nhà nước thực hiện 9 tháng năm 2023 ước đạt 17.560,8 tỷ đồng, tăng 38,87% so với cùng kỳ. Trong đó: tổng vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 12.434 tỷ đồng, tăng 42,31% so với cùng kỳ. Các công trình, dự án lớn trong lĩnh vực giao thông, đô thị (Công trình Trung tâm Chính trị - Hành chính thành phố, hệ thống giao thông và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ tại Khu đô thị Bắc Sông Cấm; Cầu Lại Xuân và cải tạo, mở rộng đường tỉnh 352; dự án Cầu bến Rừng; dự án Cải tạo, nâng cấp quốc lộ 10 đoạn từ cầu Đá Bạc đến cầu Kiền; dự án đầu tư xây dựng tuyến đường nối từ cầu Lạng Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo đến đường bộ ven biển…) tiếp tục được đẩy mạnh tiến độ thực hiện, góp phần gia tăng mức thực hiện vốn đầu tư và nâng tầm vị thế, mở đường phát triển cho nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội thành phố.
Vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng hơn 50% trong tổng vốn, do đó sự biến động của dòng vốn này tác động chính đến sự tăng trưởng của nguồn vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn. Vốn đầu tư quý III/2023 ước đạt 26.054,5 tỷ đồng, tăng 4,58% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm đầu năm 2023 ước đạt 70.092,2 tỷ đồng, tăng 10,36% so với cùng kỳ. Khu vực này tập trung đầu tư chủ yếu là các dự án chuyển tiếp từ một số doanh nghiệp lớn như: Công ty cổ phần sản xuất và kinh doanh Vinfast với dự án Tổ hợp nhà máy sản xuất ô tô Vinfast; dự án Khu du lịch quốc tế Đồi Rồng của Công ty Cổ phần đầu tư và du lịch Vạn Hương; dự án Hoàng Huy Green River, Hoàng Huy New City Thuỷ Nguyên của Công ty Cổ phần đầu tư dịch vụ tài chính Hoàng Huy; dự án xây dựng Bến cảng số 5, 6 khu bến cảng Lạch Huyện của Công ty TNHH Cảng Container Quốc tế Hateco Hải Phòng.
Khu vực vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nguồn vốn đầu tư thực hiện quý III/2023 ước đạt 17.281,5 tỷ đồng, tăng 12,15% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023 ước đạt 46.397,2 tỷ đồng, tăng 7,23% so với cùng kỳ. Nguồn vốn thực hiện được tập trung chủ yếu ở 3 nhà máy của tập đoàn LG tại Hải Phòng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp khác cũng đẩy mạnh đầu tư như: Công ty TNHH Regina Miracle Internation Việt Nam; Công ty TNHH Pegatron Việt Nam; Công ty TNHH vật liệu nam châm Shin-Etsu; Công ty TNHH Tesa Site Hải Phòng.
Tổng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thành phố tính từ đầu năm đến ngày 20/9/2023 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 2.244,89 triệu USD, trong đó:
Vốn đăng ký cấp mới có 76 dự án đến từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn đầu tư đạt 572,08 triệu USD. Trong đó, cấp mới trong khu công nghiệp, khu kinh tế 45 dự án, đạt 500,09 triệu USD, (chiếm 87,42%); cấp mới ngoài khu công nghiệp, khu kinh 31 dự án tế đạt 71,99 triệu USD (chiếm 12,58%).
Vốn đăng ký điều chỉnh có 38 dự án, với số vốn tăng là 1.660,27 triệu USD. Trong đó, trong khu công nghiệp, khu kinh tế có 29 dự án, vốn đầu tư tăng là 1.594,67 triệu USD; ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế có 09 dự án, vốn đầu tư tăng là 65,6 triệu USD.
Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 21 lượt dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký 12,54 triệu USD. Trong đó, trong khu công nghiệp, khu kinh tế 02 lượt nhà đầu tư, vốn đầu tư đăng ký 2,89 triệu USD; ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế 19 lượt nhà đầu tư, vốn đầu tư đăng ký 9,65 triệu USD.
Cũng từ đầu năm đến 20/9/2023, có 27 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động, trong đó có 20 dự án nằm ngoài KCN và 7 dự án nằm trong KCN.
5. Hoạt động của doanh nghiệp
* Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Dự kiến trong tháng 9 năm 2023, toàn thành phố có 168 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 44,92% so với cùng kỳ năm trước, với tổng số vốn đăng ký ước đạt 1.239,9 tỷ đồng, giảm 38,68% so với cùng kỳ năm trước. Số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh thành lập mới trong tháng là 147 cơ sở. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh là 138 đơn vị.
Tính chung 9 tháng năm 2023, toàn thành phố có 2.553 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 3,36% so với cùng kỳ năm trước, với tổng số vốn đăng ký ước đạt 21.346,9 tỷ đồng, tăng 6,77%. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 8,36 tỷ đồng. Số chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh thành lập mới là 1.570 cơ sở. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh là 2.242 đơn vị.
Dự kiến trong tháng 9 năm 2023, thành phố có 30 doanh nghiệp và 44 đơn vị phụ thuộc tiến hành thủ tục giải thể. Tính chung 9 tháng/2023, số doanh nghiệp dự kiến thực hiện thủ tục giải thể là 253 và đối với các đơn vị phụ thuộc là 584 cơ sở.
* Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của 182 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy:
Có 68,34% số doanh nghiệp đánh giá tổng thể chung về tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2023 so với quý II/2023 là tốt lên và giữ ổn định (27,78% doanh nghiệp đánh giá tốt lên và 40,68% doanh nghiệp đánh giá giữ ổn định), có 31,67% số doanh nghiệp cho rằng khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước lạc quan nhất với 81,82% doanh nghiệp cho rằng tốt lên và giữ ổn định; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là 68,13% và 66,67%.
Về dự báo tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2023 so với quý III/2023 được 82,23% số doanh nghiệp đánh giá giữ sản xuất ổn định và tốt hơn; có 17,78% số doanh nghiệp cho rằng khó khăn hơn. Trong đó, khu vực nhà nước đánh giá lạc quan nhất với 90,90%; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là 85,89% và 78,02%.
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý III/2023, có 50,56% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường trong nước thấp là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 43,33% doanh nghiệp đánh giá do nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 43,89% doanh nghiệp đánh giá khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước, và một số yếu tố khác như không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu; khó khăn về vấn đề tài chính; thiếu năng lượng đã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
* Nông nghiệp
Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa năm 2023 toàn thành phố đạt 33.946,4 ha, bằng 98,88% so với vụ Mùa năm trước. Diện tích canh tác cây trồng có xu hướng giảm trong những năm gần đây do dịch chuyển cơ cấu ngành nghề trong lao động khu vực nông thôn, nông nghiệp; thị trường tiêu thụ sản phẩm thiếu ổn định cũng đã hạn chế sức sản xuất trong dân và nhu cầu mở rộng diện tích gieo trồng.
Diện tích gieo trồng cây lúa vụ Mùa ước đạt 28.148,5 ha, bằng 97,71% so với cùng kỳ năm trước, diện tích cây lúa giảm do chuyển đất lúa sang đất xây dựng khu công nghiệp, đất dự án, trồng rau màu, nuôi trồng thủy sản và một phần đất lúa bị bỏ hoang.
Thời tiết vụ Mùa năm nay tương đối thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, các đối tượng sinh vật gây hại, sâu bệnh... được phòng trừ chủ động đã đem lại hiệu quả, cây lúa sinh trưởng tốt, mặt lá xanh ít sâu bệnh, tiềm năng đem lại năng suất cao.
Diện tích nhóm cây khác vụ Mùa ước đạt 5.797,9 ha, bằng 104,97% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Cây ngô đạt 267,6 ha, bằng 107,66%; cây khoai lang đạt 142,9 ha, bằng 107,78%; cây hoa các loại đạt 244 ha, bằng 102,75%; ...
Năng suất các nhóm cây rau các loại ước đạt 229,59 tạ/ha, bằng 99,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: nhóm rau lấy lá đạt 228,22 tạ/ha, bằng 99,62%; nhóm rau lấy quả đạt 230 tạ/ha, bằng 99,2%; nhóm rau lấy củ, rễ, thân đạt 212,4 tạ/ha, bằng 106,78%; ...
Diện tích cây lâu năm trên địa bàn thành phố 9 tháng/2023 ước đạt 8.445,1 ha, bằng 100,52% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây trồng tăng do chuyển đổi từ một số diện tích đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây lâu năm; mở rộng quy mô cây trồng tại những vùng trồng tập trung chuyên canh và cây trồng phân tán trên đất vườn của các hộ dân.
Ước tính tháng 9 năm 2023, số lượng đầu con gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố hiện có như sau: Tổng đàn trâu ước đạt 4,18 nghìn con, giảm 2,79% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò ước đạt 7,3 nghìn con, giảm 7,44%.
Tổng đàn lợn toàn thành ước đạt 146,73 nghìn con, giảm 2,21% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia cầm tiếp tục có xu hướng giảm, tổng đàn gia cầm hiện có ước đạt 8.680,4 nghìn con, giảm 1,13%, trong đó đàn gà ước đạt 6.904,8 nghìn con, tăng 1,52% so với cùng kỳ.
Giá thức ăn chăn nuôi giảm nhẹ; giá lợn giống giảm 3,36%; giá vịt giống tăng mạnh so với tháng trước do nguồn cung khan hiếm, nhu cầu tái đàn tăng. Giá các sản phẩm chăn nuôi đều tăng do nhu cầu thị trường.
Ước tính 9 tháng/2023, sản lượng lợn hơi xuất chuồng ước đạt 21,82 nghìn tấn giảm 4,84% so với cùng kỳ năm trước (quý III ước đạt 6,95 nghìn tấn giảm 4,54% so với cùng kỳ năm trước); sản lượng thịt trâu hơi ước đạt 494,26 tấn, giảm 11,53% (quý III đạt 140,10 tấn, giảm 9,48%); sản lượng thịt bò hơi ước đạt 701,39 tấn giảm 10,96% (quý III là 222,89 tấn giảm 0,45%); sản lượng thịt gà, vịt, ngan hơi xuất chuồng ước đạt 50,81 nghìn tấn, tăng 0,08% (quý III ước đạt 17,25 nghìn tấn, tăng 0,23%); sản lượng trứng gia cầm ước đạt gần 217,09 triệu quả, giảm 1,29% (quý III đạt 73,57 triệu quả, giảm 3,72%).
* Lâm nghiệp
Tháng 9/2023, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 72,5 m3, bằng 92,12% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 3.186,8 ste, bằng 96,56% so với cùng kỳ năm trước (sản lượng gỗ, củi chủ yếu được khai thác và thu nhặt từ cây lâm nghiệp trồng phân tán nên sản lượng ngày càng ít). Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trong tháng ước đạt 15,6 nghìn cây, bằng 119,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 9 tháng/2023, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 960,4 m3, bằng 98,37% so với cùng kỳ năm trước; củi khai thác ước đạt 27.083,3 ste, bằng 97,11% so với cùng kỳ năm trước. Số lượng cây trồng phân tán các loại ước đạt 171,8 nghìn cây, bằng 101,6% so với cùng kỳ năm trước.
* Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 9 năm/2023 ước đạt 15.460,7 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng/năm 2023, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản ước đạt 146.779,6 tấn, tăng 1,93% so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng/2023 ước đạt 11.143,4 ha, tăng 1,17% so cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 7.602,8 ha, tăng 1,03%; tôm đạt 2.868,3 ha, tăng 1,58%; thủy sản khác đạt 672,3 ha, tăng 1,01%.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch tháng 9 năm/2023 ước đạt 6.067,7 tấn, tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước. Ước 9 tháng năm/2023 sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoach đạt 56.804 tấn, tăng 3,42%, chia ra: cá các loại đạt 37.092,2 tấn, tăng 3,58%; tôm các loại đạt 5.248,3 tấn, tăng 3,95%; thủy sản khác đạt 14.463,5 tấn, tăng 2,81%.
Sản lượng khai thác thủy sản tháng 9 năm 2023 ước đạt 9.393 tấn, tăng 1,57% so với cùng kỳ năm trước. Ước 9 tháng năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác đạt 89.975,6 tấn, tăng 1,02% so với cùng kỳ năm trước.
7. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 9/2023 ước tính tăng 19,31% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,61% so với tháng 8/2023. Tính chung 9 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 12,47% so với cùng kỳ năm trước . Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,18%, đóng góp 12,43 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 10,52%, đóng góp 0,11 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 51,17%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành có chỉ số giảm là ngành sản xuất, phân phối điện giảm 2,4%, tác động làm giảm 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong 9 tháng năm nay, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính tăng 89,64%; đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 81,65%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 79,72%; sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 59,52%; sản xuất xe có động cơ tăng 49,47%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 44,54%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 43,73%...
Tuy nhiên ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như: sản xuất pin và ắc quy giảm 69,57%; lắp đặt máy móc và thiết bị công nghiệp giảm 46,75%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 40,92%; sản xuất hóa chất cơ bản giảm 33,02%; sản xuất máy nông nghiệp và lâm nghiệp giảm 26,36%; sản xuất giày dép các loại giảm 20,33% so với cùng kỳ.
* Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 9 tháng năm 2023 dự kiến tăng cao so với cùng kỳ năm trước: tủ lạnh gia đình sản xuất đạt 331 nghìn cái, tăng 797,65%; cấu kiện cầu bằng sắt thép sản xuất đạt 46,1 nghìn tấn, tăng 574,2%; các thiết bị ngoại vi của máy vi tính đạt 13,8 triệu cái, tăng 255,95%; đá xây dựng đạt 821,6 nghìn m3, tăng 64,66%; xe có động cơ sản xuất đạt 29,4 nghìn chiếc, tăng 49,09%; bút chì đen, bút chì màu và các loại bút chì khác sản xuất đạt 301,5 triệu cái, tăng 48,49%; giấy và bìa khác sản xuất đạt 7,8 nghìn tấn, tăng 44,54%…
Một số sản phẩm chủ yếu giảm so với cùng kỳ: các loại ắc quy điện sản xuất đạt 87,3 nghìn Kwh, giảm 69,57%; thuốc lá có đầu lọc sản xuất đạt 61 triệu bao, giảm 40,92%; bột giặt và các chế phẩm dùng để tẩy rửa sản xuất đạt 39,8 nghìn tấn, giảm 27,9%; máy in văn phòng sản xuất đạt 942,3 nghìn chiếc, giảm 26,62%; máy cắt cỏ sản xuất đạt 1,26 triệu cái, giảm 26,36%...
* Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9 năm 2023 ước tăng 13,51% so với tháng 8/2023 và tăng 9,87% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 9 tháng năm 2023, chỉ số tiêu thụ tăng 6,13% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như: sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 95,42% so với cùng kỳ; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 51,66%; sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 50,71%; sản xuất thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh tăng 33,45%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 30,66%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 26,2%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 22,49%...
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm mạnh như: sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa giảm 57,8%; sản xuất đồ gỗ xây dựng giảm 38,5%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 37,94%; sản xuất máy móc và thiết bị văn phòng giảm 26,97%; sản xuất giường tủ, bàn ghế giảm 24%;...
* Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 30/9/2023 có dấu hiệu giảm xuống, giảm 2,12% so với tháng 8/2023 nhưng vẫn tiếp tục ở mức cao so với cùng kỳ, tăng 23,34%.
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ: sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 173,61%; sản xuất xe có động cơ tăng 149,32%; sản xuất gỗ các loại tăng 129,74%; sản xuất thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh tăng 104,57%; sản xuất săm, lốp cao su tăng 56,3%;...
Bên cạnh đó có một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện giảm 94,78%; sản xuất bia và mạch nha giảm 92,98%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 83,2%; sản xuất đồ gỗ xây dựng giảm 73,58%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 68,91%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng và thạch cao giảm 57,36%;...
* Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/9/2023 dự kiến tăng 1,26% so với tháng 8/2023 và giảm 6,5% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,72%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 8,87%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 6,25%. Tại thời điểm trên, trong các ngành kinh tế cấp I, chỉ số sử dụng lao động của ngành khai khoáng tăng 47,62% so với cùng thời điểm năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,73%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,66%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,72% so với cùng kỳ năm trước.
Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động tăng so với cùng kỳ gồm: khai khoáng khác tăng 47,62%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 12,83%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 7,85%; xử lý ô nhiễm và hoạt động quản lý chất thải tăng 6,67%... Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số giảm như: sản xuất các sản phẩm từ giấy giảm 27,89%; sản xuất kim loại giảm 23,41%; sản xuất trang phục giảm 17,76%; sản xuất giày dép giảm 17,69%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 13,06%.
8. Thương mại, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 9 năm 2023 ước đạt 16.996,5 tỷ đồng, tăng 0,93% so với tháng trước, tăng 14,47% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 146.558,7 tỷ đồng, tăng 13,63% so với cùng kỳ năm trước, đạt 74,84% kế hoạch năm 2023 (kế hoạch đạt 195.855 tỷ đồng).
Hoạt động bán lẻ
* Tháng 9/2023: Doanh thu bán lẻ ước đạt 13.937,7 tỷ đồng, tăng 1,12% so với tháng trước, tăng 14,97% so với cùng kỳ. Trong đó hầu hết các nhóm ngành hàng đều tăng so với tháng trước, cụ thể: doanh thu ngành bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 0,57%; hàng may mặc tăng 2,42%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 0,85%; vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 1,51%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 2,15%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 4,77%; phương tiện đi lại khác tăng 0,58%; xăng dầu các loại tăng 0,93%; nhiên liệu khác tăng 0,58%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 1,03%; hàng hóa khác tăng 0,58%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 0,58%.
* Quý III và 9 tháng năm 2023: Ước tính quý III, doanh thu bán lẻ đạt 41.373,9 tỷ đồng, tăng 14,62% so với cùng kỳ. Chín tháng năm 2023 ước đạt 121.222 tỷ đồng, tăng 14,10% so với cùng kỳ và tăng ở hầu hết các ngành hàng. Trong đó, doanh thu ngành bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 14,07%; hàng may mặc tăng 14,18%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 14,04%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 14,52%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 14,19%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 14,20%; phương tiện đi lại khác tăng 14,15%; xăng dầu các loại tăng 14,12%; nhiên liệu khác tăng 14,27%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 13,79%; hàng hóa khác tăng 14,07%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 14,30%.
Hoạt động dịch vụ
* Tháng 9/2023: Nhìn chung các hoạt động dịch vụ, du lịch cơ bản đều tăng trưởng. Ước tính doanh thu một số ngành dịch vụ tháng 9 năm 2023 như sau:
- Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 221,5 tỷ đồng, giảm 1,85% so với tháng trước và tăng 13,85% so với cùng kỳ năm trước;
- Doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 1.953,0 tỷ đồng, tăng 1,45% so với tháng trước và tăng 14,60% so với cùng kỳ năm trước;
- Doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 15,9 tỷ đồng, giảm 56,65% so với tháng trước, và tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước;
- Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 868,4 tỷ đồng, tăng 0,04% so với tháng trước và tăng 7,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 4,05%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 4,76%, hoạt động dịch vụ khác tăng 9,89% so với cùng kỳ.
* Quý III năm 2023: Trong quý III năm 2023, hoạt động lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác vẫn tiếp tục phát triển với những dấu hiệu tích cực và lạc quan nhất là hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch. Trong đó, doanh thu lưu trú ước đạt 708,3 tỷ đồng tăng 13,80%; doanh thu ăn uống 5.741,2 tỷ đồng, tăng 12,59%; doanh thu lữ hành 104,8 tỷ đồng tăng 22,17%; doanh thu dịch vụ khác đạt 2.653,6 tỷ đồng tăng 4,64% so với cùng kỳ.
* Đánh giá chung 9 tháng năm 2023, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 17.218,2 tỷ, tăng 13,77%; hoạt động du lịch lữ hành 217,7 tỷ đồng tăng 50,93% và hoạt động dịch vụ khác 7.900,8 tỷ đồng tăng 6,03% so với cùng kỳ năm 2022.
Chín tháng đầu năm 2023 các ngành lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác trên địa bàn thành phố đều ổn định và tăng trưởng so với cùng kỳ. Để hoạt động du lịch thành phố phát triển trong thời gian qua đã có rất nhiều sản phẩm và mô hình mới được triển khai nhằm thu hút đông đảo người dân trong và ngoài thành phố như trải nghiệm “Food tour”, Free Walking Tour, du lịch nông nghiệp, tổ chức tuyến phố đi bộ Thế Lữ… Hải Phòng đang từng bước chuyển mình, tạo nhiều kỳ tích trong phát triển du lịch, nhiều dự án phát triển du lịch quy mô được triển khai nhằm nâng cao chất lượng hạ tầng du lịch nhằm hướng tới phát triển du lịch bốn mùa.
Cũng trong 9 tháng năm 2023 thị trường bất động sản Hải Phòng đã có nhiều tín hiệu khởi sắc rõ nét hơn, lượng giao dịch ghi nhận thành công ngày càng nhiều. Sáu tháng đầu năm 2023, Hải Phòng đứng đầu về lượng dự án nhà ở xã hội khởi công. Trong giai đoạn này, khu vực Hải Phòng ghi nhận khoảng 11 dự án mở bán, đưa ra thị trường gần 2.500 sản phẩm.
Hoạt động lưu trú và lữ hành
Tổng lượt khách tháng 9 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 663,8 nghìn lượt, giảm 21,05% so với tháng trước và tăng 9,61% so với cùng kỳ; trong đó khách quốc tế ước đạt 80,22 nghìn lượt, giảm 2,93% so với tháng trước và tăng 1,78% so với cùng kỳ. Cộng dồn 9 tháng năm 2023, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 6.216 nghìn lượt, tăng 13,26% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó khách quốc tế ước đạt 747,1 nghìn lượt, tăng 62,97% so với cùng kỳ.
Đối với hoạt động lữ hành, tháng 9 lượt khách lữ hành của các cơ sở trên địa bàn thành phố phục vụ ước đạt 5,14 nghìn lượt, giảm 74,87% so với tháng trước, và tăng 8,46% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 9 tháng năm 2023, lượt khách du lịch do các cơ sở lữ hành trên địa bàn thành phố phục vụ ước đạt 81,9 nghìn lượt, tăng 15,65% so với cùng kỳ.
Để thu hút hơn nữa lượng khách du lịch đến Hải Phòng, cần đảm bảo hơn nữa chất lượng dịch vụ tại các điểm đến; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn đối với các hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch, lữ hành, hướng dẫn viên, phương tiện vận chuyển khách du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch, vệ sinh môi trường, an ninh, an toàn tại các khu, điểm du lịch,… từ đó tạo ấn tượng tốt đẹp cho du khách quay trở lại trong thời gian tiếp theo.
9. Giao thông vận tải
Tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và dịch vụ bưu chính, chuyển phát dự kiến tháng 9 đạt 9.944,8 tỷ đồng, tăng 9,11% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính quý III năm 2023, tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và dịch vụ bưu chính, chuyển phát đạt 29.374,7 tỷ đồng, tăng 11,94% so với quý cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 9 tháng đầu năm ước đạt 87.515,8 tỷ đồng và tăng 15,07% so với 9 tháng cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng hoá
Khối lượng hàng hóa vận chuyển trong tháng 9 ước tính đạt 25,24 triệu tấn, tăng 2,37% so với tháng trước và tăng 8,97% so với tháng cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 11.019,83 triệu tấn.km, tăng 3,04% so với tháng trước và tăng 12,49% so với tháng cùng kỳ năm trước; doanh thu ước tính đạt 4.911,7 tỷ đồng, tương ứng tăng 2,62% so tháng trước và tăng 10,31% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Ước tính trong quý III, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 73,92 triệu tấn, tăng 8,86%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 31.890,08 triệu tấn.km, tăng 10,44%; doanh thu ước đạt 14.358,9 tỷ đồng, tăng 10,79% so với quý cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 9 tháng năm 2023, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 215,85 triệu tấn, tăng 7,47%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 90.048,76 triệu tấn.km, tăng 5,54%; doanh thu ước đạt 42.201,4 tỷ đồng, tăng 10,79% so với 9 tháng đầu năm 2022.
Vận tải hành khách
Trong tháng 9, doanh thu vận tải hành khách ước tính đạt 330,4 tỷ đồng, tăng 1,61% so tháng trước và tăng 43,72% so với tháng cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 6,32 triệu lượt hành khách, tương ứng tăng 2,22% so tháng trước và tăng 42,06% so với tháng cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 270,94 triệu lượt hành khách.km, tương ứng tăng 2,79% so tháng trước và tăng 45,37% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Ước tính trong quý III, số lượt hành khách vận chuyển của các loại hình vẫn tải trên địa bàn thành phố đạt 18,48 triệu lượt hành khách, tăng 41,05%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 787,46 triệu lượt hành khách.km, tăng 47,3%; doanh thu trong quý đạt 971,92 tỷ đồng, tăng 43,93% so với quý cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 9 tháng năm 2023, số lượt hành khách vận chuyển đạt 52,07 triệu hành khách, tăng 76,14% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 2.259,99 triệu lượt hành khách.km, tăng 87,12% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu ước đạt 2.754,19 tỷ đồng, tăng 78,57% so với 9 tháng cùng kỳ năm trước.
Hoạt động hỗ trợ vận tải
Doanh thu hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải (cảng, bốc xếp, đại lý vận tải,..) trong tháng 9 ước tính đạt 4.680,4 tỷ đồng (chiếm cơ cấu 47,06% tổng doanh thu hoạt động vận tải), tăng 0,61% so với tháng trước và tăng 6,07% so với tháng cùng kỳ năm trước. Hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải tiếp tục là mũi nhọn trong hoạt động vận tải của thành phố với điều kiện hạ tầng giao thông kết nối và cảng biển.
Ước tính quý III đạt doanh thu 13.978,1 tỷ đồng, tăng 11,40%; lũy kế 9 tháng đầu năm ước đạt 42.373,3 tỷ đồng, tăng 16,87% so với 9 tháng cùng kỳ năm trước.
Vận tải đường sắt
Tổng doanh thu tháng 9 năm 2023 của Ga Hải Phòng ước đạt 4,0 tỷ đồng, giảm 6,39% so với cùng kỳ. Cộng dồn 9 tháng tổng doanh thu của Ga Hải Phòng ước đạt 34.758,9 tỷ đồng, tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng không
Tháng 9 năm 2023, tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 25,8 tỷ đồng, tăng 1,12% so với tháng trước; giảm 3,46% so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 9 tháng đầu năm, tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 233,45 tỷ đồng, tăng 1,58% so với cùng kỳ.
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 9 năm 2023 ước đạt 1.310 chuyến, giảm 5,07% so với tháng trước, giảm 17,92% so với cùng tháng năm trước. Tháng 9 có 60 chuyến bay ngoài nước. Cộng dồn 9 tháng đầu năm, số lần máy bay hạ, cất cánh ước đạt 13.071 chuyến, giảm 7,81% so với cùng kỳ.
Tổng số hành khách tháng 9 năm 2023 ước đạt 221 nghìn lượt người, giảm 7,91% so với tháng trước, giảm 11,27% so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 9 tháng đầu năm, tổng số hành khách vận chuyển ước đạt 2.156,1 nghìn lượt người, giảm 4,77% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số hàng hóa tháng 9 năm 2023 ước đạt 1.130 tấn, giảm 8,35% so với tháng trước, tăng 11,99% so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 9 tháng đầu năm, tổng số hàng hóa ước đạt 11.593 tấn, tăng 38,52% so với cùng kỳ.
10. Hàng hoá thông qua cảng
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng dự kiến tháng 9 năm 2023 ước đạt 15,02 triệu TTQ, tăng 3,92% so với tháng trước và tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước tháng 9 năm 2023 đạt 4,660 triệu TTQ, giảm 6,04% so với tháng trước, tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước.
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 10,357 triệu TTQ, tăng 9,13% so với tháng trước, tăng 2,55% so với cùng kỳ năm 2022.
Hàng hóa thông qua cảng biển trên địa bàn thành phố 9 tháng năm 2023 đạt 112,19 triệu TTQ, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 2022 trong đó: Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước đạt 38,711 triệu TTQ giảm 9,85% so với cùng kỳ; Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt 73,48 tăng 4,56% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu cảng biển 9 tháng năm 2023 đạt 4.871,7 tỷ đồng, giảm 0,16% so với cùng kỳ năm 2022.
11. Bưu chính viễn thông
Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông Hải Phòng tháng 9 năm 2023 ước đạt 112,60 tỷ đồng tăng 2,28% so với tháng trước, giảm 0,24% so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 9 tháng, tổng doanh thu bưu chính, viễn thông Hải Phòng ước đạt gần 992,01 tỷ đồng, giảm 15,87% so với cùng kỳ năm trước.
Số thuê bao điện thoại phát triển mới tháng 9 năm 2023 ước đạt 640 thuê bao, giảm 15,9% so với tháng trước, tăng 76,8% so với cùng tháng năm trước. Trong tổng số thuê bao di động trả sau phát triển mới, khu vực ngoại thành tháng 9 năm 2023 ước đạt 150 máy. Cộng dồn 9 tháng, số thuê bao điện thoại phát triển mới ước đạt 6.207 thuê bao.
Số thuê bao Internet phát triển mới tháng 9 năm 2023 ước đạt 1.500 thuê bao, giảm 26,58% so với cùng tháng năm trước.
12. Một số tình hình văn hóa – xã hội
* Công tác Lao động, việc làm
Tháng 9 năm 2023, Sàn giao dịch việc làm ước tổ chức 07 phiên giao dịch với sự tham gia tuyển dụng của trên 90 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng khoảng trên 12.630 lao động, cung lao động tại Sàn khoảng trên 11.350 lượt người; tiếp nhận hồ sơ đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp cho khoảng 1.810 người, số người có quyết định hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp khoảng 1.840 người. Ước cấp mới 550 giấy phép lao động, cấp lại 75 giấy phép lao động, gia hạn 330 giấy phép lao động, xác nhận không thuộc diện cấp 03 giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đã thực hiện thẩm định 17 hồ sơ nội quy lao động và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 08 doanh nghiệp; đã tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể của 29 doanh nghiệp. Trên địa bàn thành phố không xảy ra đình công, không xảy ra vụ tai nạn lao động làm chết người (cùng kỳ năm 2022 không xảy ra vụ đình công nào, không xảy ra vụ tai nạn lao động làm chết người).
Trong 9 tháng năm 2023, ước giải quyết việc làm được 44.250 lượt lao động, bằng 77,23% kế hoạch năm và bằng 104,98% so với cùng kỳ năm 2022. Số lao động giải quyết việc làm tăng so với cùng kỳ năm 2022 chủ yếu tăng trong ngành công nghiệp - xây dựng (tăng 2,72% so với cùng kỳ), dịch vụ (tăng 1,91% so với cùng kỳ), đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (tăng 254,29% so với cùng kỳ) do tình hình sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các ngành này đã đi vào ổn định.
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Tháng 9/2023, đã tổ chức tiếp nhận cai nghiện ma túy tập trung tại các Cơ sở cai nghiện ma túy cho 94 người. Cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 30 người. Điều trị Methadone toàn thành phố (17 cơ sở, giảm 01 cơ sở so với tháng 8/2023 do sáp nhập Cơ sở điều trị Methadone Lê Chân vào Cơ sở điều trị Methadone Vĩnh Niệm) cho 3.854 người, trong đó ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đang quản lý 06 cơ sở điều trị cho 1.169 người. Đoàn kiểm tra liên ngành 178 thành phố đã tiến hành rà soát, nắm tình hình, kiểm tra 09 cơ sở kinh doanh dịch vụ: nhà nghỉ, khách sạn, karaoke, massage ... trên địa bàn thành phố, trong đó có 05 cơ sở kinh doanh dịch vụ trong kế hoạch đã được phê duyệt và kiểm tra đột xuất 04 cơ sở kinh doanh dịch vụ theo đề nghị của thành viên Đoàn kiểm tra.
Trong 9 tháng năm 2023, tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện ma túy cho 1.584 lượt người, bằng 110,7% so với cùng kỳ năm trước (1.584/1.431), bằng 70,6% so với kế hoạch năm (1.584/2.245). Điều trị Methadone toàn thành phố (17 cơ sở) cho 3.854 người, trong đó 06 cơ sở thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội điều trị cho 1.405 người, bằng 100,7% so với cùng kỳ năm trước. Cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 272 người, bằng 136% so với cùng kỳ năm trước (272/200) và bằng 90,7% so với kế hoạch năm (272/300). Đoàn kiểm tra 178 thành phố đã tiến hành kiểm tra 73 cơ sở kinh doanh dịch vụ: nhà nghỉ, khách sạn, karaoke, massage, trong đó: 30 cơ sở kinh doanh dịch vụ trong kế hoạch đã được phê duyệt và tiến hành kiểm tra đột xuất 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ. Qua kiểm tra, Đoàn đã lập biên bản chuyển thanh tra chuyên ngành xử phạt 02 cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn quận Đồ Sơn với tổng số tiền là 7 triệu đồng nộp kho bạc nhà nước.
* Công tác Giáo dục - Đào tạo
Trong tháng 9/2023, thành phố đã kiểm tra công tác tuyển sinh, công tác chuẩn bị năm học 2023 - 2024, hướng dẫn các cơ sở giáo dục tổ chức thành công khai giảng năm học mới 2023 - 2024.
Trong 9 tháng năm 2023, Ngành Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đã đạt những thành tích cao tại các kỳ thi: 03 huy chương và 01 bằng khen tại các kỳ thi Olympic quốc tế, khu vực; 76 giải học sinh giỏi quốc gia năm học 2022 - 2023 (05 giải Nhất, 28 giải Nhì, 23 giải Ba, 20 giải Khuyến khích); 02 dự án giải Nhất Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học năm học 2022 - 2023; 04 giải viết thư toàn quốc (01 giải Nhì, 01 giải Ba, 01 giải Khuyến khích); xếp thứ 06 toàn quốc về trung bình điểm thi Tốt nghiệp THPT năm 2023; có 01 thủ khoa toàn quốc khối D01 kỳ thi Tốt nghiệp THPT.
Triển khai hiệu quả phong trao thi đua "Đổi mới, sáng tạo trong quản lý, giảng dạy và học tập” do Bộ GDĐT phát động. Kết quả: Ngành Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng được Cụm thi đua 1 thuộc Bộ GDĐT bình xét và suy tôn là đơn vị nhận cờ thi đua xuất sắc năm học 2022 - 2023.
* Công tác Y tế
Trong tháng 9/2023, toàn thành phố ghi nhận 08 ca mắc Covid-19. Tích lũy từ đầu năm 2023 đến thời điểm báo cáo toàn thành phố ghi nhận 5.763 ca mắc, không có ca tử vong; thành phố tiếp tục có các chỉ đạo tăng cường công tác phòng, chống dịch; chủ động công tác giám sát, theo dõi chặt chẽ tình hình dịch trên địa bàn không để xảy ra nguy cơ bùng dịch.
Thường xuyên cập nhật các thông tin về các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, mới nổi được ghi nhận gần đây, có nguy cơ xâm nhập vào nước ta để chủ động áp dụng các biện pháp giám sát, phối hợp với các đơn vị y tế khác xử lý ổ dịch không để bùng phát tại cộng đồng. Tham mưu Sở Y tế, UBND thành phố ban hành các văn bản chỉ đạo trong công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi và tái nổi năm 2023. Tăng cường công tác giám sát, phát hiện các trường hợp mắc, sốt xuất huyết, tay chân miệng, viêm não Nhật Bản, thủy đậu... xử lý ổ dịch ngay từ các trường hợp đầu tiên không để dịch bệnh lây lan diện rộng.
* Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong tháng 9/2023, thành phố thực hiện 14 đợt kiểm tra trong đó: 06 đợt kiểm tra định kỳ: Bếp ăn tập thể, Tháng hành động an toàn thực phẩm; 08 đợt kiểm tra đột xuất. Kết quả chi tiết: cơ sở được thanh tra, kiểm tra: 311 cơ sở (28 cơ sở sản xuất thực phẩm, 27 cơ sở kinh doanh thực phẩm, 256 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống); số cơ sở kiểm tra đạt: 258 cơ sở, chiếm tỷ lệ 83,9%, số cơ sở vi phạm: 12 (chủ yếu là cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống); xử lý vi phạm: 27 cơ sở, phạt tiền: 257,8 triệu đồng.
Trong 9 tháng năm 2023, đã thực hiện 37 đợt giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm; Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan đảm bảo an toàn thực phẩm như: phục vụ đón tiếp các Đoàn cán bộ cấp cao trong và ngoài nước, các sự kiện, hội nghị lớn trên địa bàn thành phố, đặc biệt là các Chương trình, Lễ hội lớn của thành phố (chuỗi hoạt động hưởng ứng Lễ hội Hoa Phượng Đỏ năm 2023, Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 41 tại Hải Phòng,...).
* Công tác phòng chống HIV/AIDS
Trong tháng báo cáo, ghi nhận 17 ca nhiễm HIV mới; số người nhiễm HIV đang còn sống đến thời điểm báo cáo là 6.361 trường hợp; số người nhiễm HIV tử vong lũy tích là 5.434 trường hợp. Hiện tại điều trị ARV cho 5.448 người; điều trị PreP cho 1.347 người.
Đến thời điểm báo cáo, có 18 cơ sở điều trị Methadone, điều trị 3.864 người, đạt 84 % chỉ tiêu được giao, số bệnh nhân đạt liều duy trì 95%. Ngành Y tế điều trị cho 2.724 bệnh nhân đạt 70%.
* Công tác văn hóa – thể thao
Trong tháng 9/2023, toàn Ngành tập trung tổ chức các hoạt động tuyên truyền, cổ động trực quan, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, gia đình phong phú, đa dạng, tạo được không khí vui tươi, sôi nổi, rộng khắp trên toàn thành phố, thiết thực chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của đất nước và thành phố; đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của người dân như: tổ chức các chương trình nghệ thuật triển khai kế hoạch sáng đèn Nhà hát thành phố vào mỗi tối thứ 7, chủ nhật hàng tuần. Triển khai chương trình nghệ thuật kỷ niệm 80 năm thực hiện “Đề cương văn hóa Việt nam”, Lễ hội Hoa phượng đỏ …
Chỉ đạo thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao và gia đình; công tác thanh tra đối với hoạt động quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật, di tích, Karaoke, cơ sở kinh doanh thể dục thể thao. Thành phố thực hiện 08 buổi thanh tra, kiểm tra đối với 65 lượt đối tượng (11 tổ chức và 54 cá nhân). Đã xử phạt vi phạm hành chính 68 triệu đồng đối với 03 tổ chức và 04 cá nhân đã vi phạm các quy định pháp luật trong lĩnh vực văn hóa và thể thao.
Tiếp tục triển khai đề án nghiên cứu, lựa chọn bổ sung tượng doanh nhân, công trình điêu khắc đặt tại một số vườn hoa, công viên trên địa bàn thành phố; đề án chương trình âm nhạc đường phố, cuộc thi sáng tác ca khúc về thành phố Hải Phòng, biểu tượng thành phố Hải Phòng. Vận hành tốt hệ thống một cửa và dịch vụ công trực tuyến, tiếp nhận và giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực ngành quản lý; phối hợp thành đoàn thực hiện gắn mã QR các di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh cấp thành phố tại các quận, huyện.
Công tác thể dục, thể thao: Tiếp tục triển khai các bước xây dựng Nghị quyết, quy định chế độ khuyến khích đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao trong thời gian tập trung tập luyện, huấn luyện và thi đấu của thành phố Hải Phòng. Đăng cai tổ chức Festival nhiếp ảnh trẻ năm 2023; tổ chức giải vô địch Golf quốc gia 2023 tại thành phố.
* Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 15/8/2023 đến ngày 14/9/2023, toàn thành phố xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt làm 02 người bị thương và không có người chết. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tai nạn giao thông giảm 02 vụ (tương ứng giảm 66,67%); số người chết giảm 02 người (tương ứng giảm 100%) và số người bị thương giảm 01 người (tương ứng giảm 33,33%). Các vụ tai nạn chủ yếu từ va chạm cá nhân, do người dân chưa chấp hành đúng luật, không tuân thủ các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông.
Trong 9 tháng năm 2023, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông đường bộ và 04 vụ tai nạn giao thông đường sắt. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 39 người và bị thương 11 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 03 vụ (tương ứng giảm 7,14%); số người chết tăng 02 người (tương ứng tăng 5,41%); số người bị thương không tăng, không giảm.
* Công tác phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 15/8/2023 đến ngày 14/9/2023, trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã xảy ra 15 vụ cháy, không có người chết và làm 02 người bị thương; các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản.
Trong 9 tháng năm 2023, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 75 vụ cháy, số người chết là 05 người và bị thương 03 người; nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao tại một số nhà dân và cơ quan, doanh nghiệp; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 2,72 ha; các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục chú trọng tăng cường phối hợp liên ngành để kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại các địa bàn, cơ sở trọng điểm dễ xảy ra cháy nổ, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy./.
Tác giả bài viết: Cục Thống kê Hải Phòng
-
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 3, 3 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
29/03/2024 -
Thông cáo báo chí tình hình Kinh tế - Xã hội 6 tháng đầu năm 2024 thành phố Hải Phòng
28/06/2024 -
Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, 9 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
08/10/2024 -
Cục Thống kê TP Hải Phòng tổ chức thành công họp báo công bố số liệu 6 tháng đầu năm 2023
29/06/2023 -
Infographics tình hình KTXH TP Hải Phòng 6 tháng năm 2023
28/06/2023 -
Thông cáo báo chí tình hình KTXH TP Hải Phòng 6 tháng năm 2023
28/06/2023 -
Chương trình họp báo 6 tháng năm 2023
28/06/2023 -
Tình hình KTXH TP Hải Phòng Quý I năm 2023
29/03/2023
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11, 11 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
- Thủy Nguyên phát huy tiềm lực sẵn sàng trở thành đô thị loại III
- Infographic tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 11, 11 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
- Cục Thống kê triển khai hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
- Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10, 10 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng