Thông cáo báo chí Tình hình kinh tế - Xã hội thành phố Hải Phòng năm 2024
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2024
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Năm 2024, vượt qua khó khăn thách thức từ tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, thiên tai, bão lũ diễn biến phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng, kinh tế Việt Nam có sự phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ với nhiều điểm sáng do thực hiện hiệu quả các chính sách, tập trung nâng cao năng suất, đẩy mạnh cải cách cơ cấu, tận dụng cơ hội từ hội nhập quốc tế, đầu tư vào các động lực tăng trưởng mới như chuyển đổi số và kinh tế xanh.
Đối với thành phố Hải Phòng, công tác chỉ đạo điều hành thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 được tập trung triển khai đồng bộ và hiệu quả ngay từ đầu năm. Là địa phương chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão số 3 (Yagi) đã gây thiệt hại lớn đến hạ tầng kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tài sản và đời sống nhân dân; tuy nhiên, trước sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Lãnh đạo Thành phố, cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp, kinh tế - xã hội của thành phố nhanh chóng đi vào ổn định, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2024 ước đạt 11,01%, xếp thứ 3 cả nước, là năm thứ 10 liên tiếp duy trì tăng trưởng ở mức 02 con số; quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, đặt dấu mốc là năm đầu tiên thành phố bước vào nhóm 5 tỉnh, thành phố có quy mô kinh tế lớn nhất cả nước (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng); nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu hoàn thành sớm hơn dự kiến, vượt mức kế hoạch đề ra; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên… Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong năm 2024 như sau:
1. Về tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố năm 2024 ước đạt 288.492 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 11,01% so với năm trước (kế hoạch tăng 11,50%-12%). Mặc dù đây là mức tăng trưởng cao so với bình quân chung của cả nước và các tỉnh thành phố khác, đứng thứ 3 cả nước và thứ 1 vùng đồng bằng Sông Hồng nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu thành phố đề ra. Trong mức tăng tổng sản phẩm trên địa bàn: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 3,4%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 13,69%, đóng góp 7,57 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 8,66%, đóng góp 3,14 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,21%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản do ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm nhiều diện tích cây trồng bị ngập úng, gãy đổ không thể sinh trưởng phát triển trở lại; nhiều chuồng trại chăn nuôi, diện tích nuôi trồng thủy sản, tàu bè khai thác bị thiệt hại nặng nề làm ảnh hưởng đến giá trị tăng thêm toàn ngành. Trong năm, trên địa bàn không xuất hiện dịch bệnh lớn, thành phố tiếp tục cơ cấu lại ngành trồng trọt, ứng dụng cơ giới hóa vào hoạt động sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2024 giảm 4,37% so với năm trước, làm giảm 0,08 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản giảm 1,99%, làm giảm 0,02 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất công nghiệp tiếp tục đóng góp quan trọng trong GRDP của thành phố, ngành công nghiệp cho thấy xu hướng phục hồi rõ nét và phát triển trong thời gian tới. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2024 tăng 14,02% so với năm trước (quý I tăng 12,9%; quý II tăng 16,49%; quý III tăng 11,59%, quý IV tăng 15,1%), đóng góp 7,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm cơ cấu 45,12% GRDP, tiếp tục là động lực tăng trưởng của kinh tế thành phố với tốc độ tăng 14,84%, đóng góp 7,1 điểm phần trăm. Trong đó, một số ngành công nghiệp trọng điểm đạt mức tăng trưởng cao như sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 14%, đóng góp 3,53 điểm phần trăm; sản xuất xe có động cơ tăng 70,9%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm; sản xuất thiết bị điện tăng 21,27%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm...; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 0,35%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,11%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng có tăng trưởng âm (-23,6%), làm giảm 0,02 điểm phần trăm.
Hoạt động xây dựng trên địa bàn được hỗ trợ từ tín hiệu khởi sắc của thị trường bất động sản cùng với các dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân đang được đẩy mạnh triển khai, giá trị tăng thêm ước tăng 10,14%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Tuy vậy, kết quả này vẫn thấp hơn mức tăng của năm 2023 (+14,01%), trong đó giá trị xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật dân dụng có tốc độ giảm so với năm 2023, giảm 45,02%.
Khu vực dịch vụ, năm 2024 thành phố đưa ra nhiều giải pháp kích cầu tiêu dùng, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, phát triển thương mại điện tử; thực hiện hiệu quả công tác quảng bá du lịch; hoạt động vận chuyển hành khách và hàng hóa tăng ở hầu hết các phương thức; hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn thành phố tăng khá. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ tăng 8,66% so với năm trước, trong đó đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung của thành phố như sau: ngành thương mại tăng 10,13%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 10,06%, đóng góp 1,68 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú ăn uống tăng 9,89%, đóng góp 0,18 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,96%, đóng góp 0,16 điểm phần trăm; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 8,98%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ...
Quy mô GRDP (theo giá hiện hành) năm 2024 ước đạt 445.995 tỷ đồng (tương đương 18.362,8 triệu USD), đứng thứ 5 cả nước. Cơ cấu kinh tế theo các khu vực như sau: khu vực nông, lâm, nghiệp thủy sản chiếm tỷ trọng 3,15%; công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 53,08%; thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng 38,52%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm tỷ trọng 5,25%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Năm 2024, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố tích cực áp dụng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, quy hoạch vùng sản xuất tập trung đã mang lại hiệu quả cao trong sản xuất. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cơn bão số 3 đã gây thiệt hại lớn đến ngành nông nghiệp thành phố, làm giảm cả năng suất và sản lượng so với năm trước: năng suất lúa cả năm ước giảm 23,2%; sản lượng thủy sản nuôi trồng và thu hoạch cả năm ước giảm 0,99%.
a) Nông nghiệp
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn thành phố năm 2024 ước đạt 76.034,9 ha (+83,5 ha), bằng 100,11% so với năm 2023.
Diện tích trồng lúa năm 2024 ước đạt 55.938,2 ha, bằng 100,36% so với năm trước. Năng suất lúa cả năm đạt 49,55 tạ/ha, bằng 76,8% và sản lượng ước đạt 277,1 nghìn tấn, bằng 77,07% so với năm trước.
Diện tích cây lâu năm trên địa bàn thành phố năm 2024 ước đạt 7.877,1 ha, bằng 93,61% so với năm trước.
Cơ cấu các nhóm cây trồng vẫn giữ được ổn định, cây ăn quả ước đạt 6.406,2 ha, chiếm 81,33% tổng diện tích; cây lấy quả chứa dầu đạt 252,1 ha, chiếm 3,2%; cây gia vị, dược liệu đạt 66,6 ha, chiếm 0,85%; cây chè đạt 107,5 ha, chiếm 1,36%; cây lâu năm khác đạt 1.044,7 ha, chiếm 13,26%.
Năm 2024, ngành chăn nuôi thành phố gặp nhiều khó khăn do cơn bão số 3 gây ra đối với cơ sở vật chất và đàn vật nuôi. Ước tính cả năm, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng đạt 665,2 tấn, bằng 98,99% so với năm trước; sản lượng thịt bò hơi đạt 835,8 tấn, bằng 98,93%; sản lượng thịt lợn hơi đạt 31.227,76 tấn, bằng 103,84%; sản lượng thịt gia cầm hơi đạt 68.254,2 tấn, bằng 101,62%; tổng sản lượng trứng gia cầm ước đạt 271,1 triệu quả, bằng 99,66%.
b) Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp năm 2024 do ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm ảnh hưởng nặng nề đến hệ thống rừng trên địa bàn thành phố. Đến thời điểm hiện nay, nhiều diện tích rừng đã phục hồi tốt.
Ước năm 2024, sản lượng gỗ khai thác đạt 1.180,3 m3, tăng 2,05% so với năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 38.027,6 ste, tăng 2,63%. Diện tích rừng trồng mới đạt 92,19 ha (đây là dự án trồng rừng ngập mặn hoàn trả diện tích rừng thu hồi thực hiện dự án đầu tư nâng cấp mở rộng tuyến đường xuyên đảo Cát Bà); số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 192 nghìn cây, bằng 93,66%.
Năm 2024, thành phố xảy ra 13 vụ cháy rừng với tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 13,44 ha.
c) Thủy sản
Ước tính năm 2024, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản đạt 194.320,7 tấn, giảm 0,99% so với năm trước.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 77.811,5 tấn, giảm 1,8%; sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 116.509,2 tấn, giảm 0,43% so với năm trước.
Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2024 ước đạt 11.294,7 ha, giảm 1,1% so với năm trước.
Sản lượng giống thủy sản ước đạt 2.447,1 triệu con giống các loại, giảm 1,36% so với năm trước.
3. Sản xuất công nghiệp
Năm 2024, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, sản xuất công nghiệp trên địa bàn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 3, song với những biện pháp hỗ trợ thiết thực, kịp thời của thành phố, sự chủ động nỗ lực của các doanh nghiệp, sản xuất công nghiệp đã nhanh chóng phục hồi và tăng tốc trong quý IV với kết quả tăng 32,78% so với quý trước và tăng 16,79% so với cùng kỳ. Tính chung năm 2024, công nghiệp thành phố về đích với mức tăng 15,43%, vượt kế hoạch đề ra.
Chỉ số phát triển sản xuất toàn ngành công nghiệp thành phố (IIP) năm 2024 ước tăng 15,43% so với năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 27,46%, làm giảm 0,05 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,28%, đóng góp 15,68 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện giảm 3,05%, tác động làm giảm 0,22 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 1,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong sản xuất công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến chế tạo phát huy vai trò là trụ đỡ, chiếm quyền số cao nhất (trên 90% giá trị tăng thêm), quyết định chủ yếu đến tốc độ tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Một số ngành công nghiệp có mức tăng cao so với năm trước như: sản xuất xe có động cơ tăng 118,14%; sản xuất dao kéo, dụng cụ cầm tay và đồ kim loại thông dụng tăng 80,90%; sản xuất máy nông nghiệp và lâm nghiệp tăng 72,19%; sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính tăng 65,27%; sản xuất giấy và bìa nhăn, bao bì từ giấy tăng 55,83%; sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 43,96%;...
Ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như: chế biến và bảo quản rau quả giảm 55,88%; sản xuất plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh giảm 54,85%; sản xuất săm, lốp cao su giảm 34,01%; khai thác đá, cát giảm 27,46%; chế biến và bảo quản thủy sản giảm 26,62%; sản xuất bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động giảm 24,58% so với năm trước.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2024 ước tăng 10,16% so với năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như: sản xuất xe có động cơ tăng 121,31%; sản xuất thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh tăng 119,13%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 48,75%; sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 43,01%; sản xuất thuốc hóa dược và dược liệu tăng 30,34%; sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép tăng 29,79%;...
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tại thời điểm 31/12/2024 dự kiến tăng 3,63% so với tháng trước và tăng 11,50% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như sản xuất máy móc và thiết bị văn phòng tăng 207,56%; sản xuất bia tăng 121,14%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 110,80%; sản xuất xe có động cơ tăng 85,74%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 73,11%;...
Số lao động làm việc trong doanh nghiệp công nghiệp ước tại thời điểm 01/12/2024 dự kiến tăng 0,1% so với tháng 11/2024 và tăng 2,9% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó lao động ở cả ba khu vực doanh nghiệp đều tăng so với cùng thời điểm năm 2023: khu vực nhà nước tăng 0,82%; khu vực ngoài nhà nước tăng 8,30%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,38%. Năm 2024 số lao động làm việc trong toàn ngành công nghiệp ước tăng 2,57% so với năm 2023.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2024 dự kiếntăng cao so với năm trước như: xe có động cơ chở dưới 10 người sản xuất đạt 98,9 nghìn chiếc, tăng 118,26%; thiết bị ngoại vi của máy vi tính (chuột, bút quang, bàn phím,..) đạt 40,4 triệu sản phẩm, tăng 106,93%; máy cắt cỏ đạt 3,6 triệu cái, tăng 72,19%;…
Một số sản phẩm chủ yếu giảm so với năm trước: polyme từ etylen đạt 35,4 nghìn tấn, giảm 54,85%; lốp cao su đạt 2.113 nghìn chiếc, giảm 34,01%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại đạt 6,8 nghìn tấn, giảm 32,39%;...
4. Thương mại, dịch vụ
Năm 2024, khu vực thương mại, dịch vụ đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra nhưng ghi nhận mức tăng trưởng khá ở nhiều nhóm ngành. Các đơn vị sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục khai thác hiệu quả sức mua của thị trường, nhiều giải pháp nhằm xúc tiến thương mại, kích cầu tiêu dùng, du lịch được tăng cường triển khai. Ước tính năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 13,58%; tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước tăng 14,52%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 19,91%; doanh thu hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ tăng 12,81% so với năm trước.
* Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Ước tính năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 225.784,2 tỷ đồng, tăng 13,58% so với năm trước, bằng 101,45% kế hoạch năm 2024 (kế hoạch đạt 222.550 tỷ đồng).
Chia theo ngành hoạt động: Doanh thu hoạt động bán lẻ năm 2024 ước đạt 187.683,8 tỷ đồng, tăng 14,13%; doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 2.572,1 tỷ đồng, tăng 13,14%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 24.090,8 tỷ đồng, tăng 13,66%; doanh thu du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ ước đạt 275,9 tỷ đồng, tăng 9,87%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 11.161,6 tỷ đồng, tăng 5,16% so với năm trước.
* Số lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ
Tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ năm 2024 ước đạt 9,103 triệu lượt, tăng 14,52%, trong đó khách quốc tế ước đạt 987,8 nghìn lượt, tăng 1,22% so với năm trước.
* Dịch vụ vận tải
Hoạt động vận tải trên địa bàn thành phố năm 2024 đạt mức tăng trưởng tích cực cả về vận chuyển hành khách và vận tải hàng hóa do nhu cầu đi lại của người dân và lưu thông hàng hóa tăng.
Năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 321,5 triệu tấn, tăng 9,43%; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 138.282,6 triệu tấn.km, tăng 11,36%; doanh thu ước đạt 63.954,6 tỷ đồng, tăng 11,21% so với năm trước; số lượt hành khách vận chuyển đạt 85,5 triệu lượt hành khách, tăng 19,52%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3.716,9 triệu lượt hành khách.km, tăng 20,27%; doanh thu ước đạt 4.477,9 tỷ đồng, tăng 18,90% so với năm trước.
5. Tài chính và ngân hàng
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố năm 2024 ước đạt 118.255,3 tỷ đồng, bằng 120,86% dự toán Trung ương giao, bằng 110,77% so với dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao. Trong đó: thu nội địa đạt 50.068 tỷ đồng, bằng 133,23% dự toán Trung ương giao, bằng 111,26% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 67.046,3 tỷ đồng, bằng 114,02% so với dự toán Trung ương giao, bằng 111,74% so với dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao.
Tổng chi ngân sách địa phương năm 2024 ước đạt 39.407,7 tỷ đồng, đạt 120,18% so với Dự toán Trung ương giao, đạt 99,09% Dự toán Hội đồng nhân dân giao. Trong đó chi đầu tư phát triển đạt 18.912,6 tỷ đồng, đạt 116,29% Dự toán Trung ương giao, đạt 99,3% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao; chi thường xuyên đạt 16.076,2 tỷ đồng, đạt 108% Dự toán Trung ương giao, đạt 100% Dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao.
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến 31/12/2024 đạt 361.583 tỷ đồng, tăng 9,65% so với năm trước.
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2024 ước đạt 249.321 tỷ đồng, tăng 20,5% so với năm trước.
6. Đầu tư
Năm 2024, nhiều dự án, công trình trong các lĩnh vực giao thông, cảng biển, nhà máy, đô thị,… được đẩy mạnh đầu tư, góp phần nâng tầm vị thế và tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành ước tăng 10,09% so với năm trước và tăng 0,71% so với kế hoạch năm, tập trung tăng ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ, ước tăng 20,42% so với năm 2023, cao nhất giai đoạn 2020-2024, kết quả này phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh đang phục hồi ở nhiều ngành, lĩnh vực, tạo động lực cho thu hút và thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn thành phố năm 2024 ước đạt 211.481 tỷ đồng, tăng 10,09% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 29.351 tỷ đồng, chiếm 13,88% tổng vốn và giảm 0,55%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 72.841,7 tỷ đồng, chiếm 34,44% và tăng 20,42%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 109.288,3 tỷ đồng, chiếm 51,68% và tăng 7,04%.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến ngày 31/12/2024 Hải Phòng có 1.020 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 33,8 tỷ USD.
Tổng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thành phố tính từ đầu năm đến ngày 31/12/2024 đạt 4.909,36 triệu USD, trong đó: vốn đăng ký cấp mới có 126 dự án, đạt 757,43 triệu USD; vốn đăng ký điều chỉnh có 72 dự án với số vốn tăng là 3.724,36 triệu USD; giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài: 26 lượt, với số vốn đầu tư đăng ký: 427,57 triệu USD.
Cũng từ đầu năm đến 31/12/2024, có 32 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động, trong đó có 12 dự án nằm trong khu công nghiệp, 20 dự án ngoài khu công nghiệp.
7. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Năm 2024, giá cả các mặt hàng đều có sự biến động, Lãnh đạo Thành phố chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai tích cực các giải pháp đồng bộ để ổn định giá cả; theo dõi sát diễn biến cung cầu, tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, giám sát an toàn thực phẩm, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, tích trữ, tăng giá đột biến, đảm bảo nguồn cung các mặt hàng thiết yếu, các mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng cao, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của người dân.
Bình quân năm 2024, CPI tăng 3,11% so với năm 2023.
Giá vàng thế giới đầu tháng 12/2024 tiếp đà giảm từ tháng 11/2024, cùng với đó Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) hạ lãi suất như dự kiến đã khiến giá vàng giảm sâu. Giá vàng trong nước chịu tác động của giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng bình quân tháng 12/2024 giảm 2,04% so với tháng trước, tăng 36,05% so với tháng 12/2023. Bình quân năm 2024, giá vàng trong nước tăng 32,59% so với năm 2023.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2024 tăng 0,04% so với tháng trước, tăng 4,1% so với tháng 12/2023. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 12/2024 dao động ở mức 25.487 đồng/USD, tăng 11 đồng/USD. Bình quân năm 2024, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tăng 4,7% so với năm 2023.
8. Một số vấn đề xã hội
Năm 2024, Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu cả nước với những chính sách an sinh xã hội ưu việt, nhân văn và vì nhân dân, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, giáo dục, đào tạo, thông tin, truyền thông, tín ngưỡng, tôn giáo, thanh niên, trẻ em... luôn được chính quyền các cấp quan tâm; công tác bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội, giảm nghèo bền vững được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng.
a) Dân số và lao động
Hải Phòng hiện đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng đồng thời trong quá trình già hóa dân số. Dân số trung bình của thành phố Hải Phòng năm 2024 ước đạt 2,124 triệu người, trong đó tỷ lệ dân số nam và nữ khá cân bằng (nam giới chiếm 49,59%, nữ giới chiếm 50,41%). Dân số trung bình khu vực thành thị là 970,27 nghìn người, chiếm 45,67%, dân số trung bình khu vực nông thôn là 1.154,25 nghìn người, chiếm 54,33%.
b) Lao động việc làm
Trong năm 2024, lực lượng lao động tại Hải Phòng vẫn duy trì ở mức ổn định, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của thành phố. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước 1.050,6 nghìn người (bằng 100,76% so với năm 2023); lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc ước 1.030,1 nghìn người (bằng 100,97% so với năm 2023).
c) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Tổng số đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội năm 2024 là 754 người (bằng 99,47% so với năm 2023). Tập trung người lang thang trên địa bàn thành phố là 352 lượt người (giảm 12 lượt người so với năm 2023).
Trong năm 2024, tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện ma túy cho 3.358 lượt người, bằng 140% so với năm 2023. Cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 350 người, bằng 95% so với năm 2023.
d) Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao
Công tác giáo dục: Năm 2024, tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2024-2025 và kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024. Quy mô giáo dục Hải Phòng tiếp tục được ổn định và có những bước phát triển tích cực.
Hải Phòng tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. 04 học sinh lớp 12 trường THPT chuyên Trần Phú đã xuất sắc đạt thành tích cao: 01 Huy chương Vàng Kỳ thi Olympic Sinh học quốc tế; 01 Huy chương Bạc Kỳ thi Olympic Vật lí Quốc tế; 01 Huy chương Đồng Kỳ thi Olympic Toán Quốc tế; 01 Huy chương Đồng Olympic Vật lí Châu Á; 01 Huy chương Bạc Olympic Tin học Châu Á - Thái Bình Dương năm 2024.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Ủy ban nhân dân thành phố tiếp tục triển khai công tác bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố, không để xảy ra ngộ độc thực phẩm, sự cố an toàn thực phẩm đối với các hội nghị, lễ hội, sự kiện. Tăng cường phòng chống các bệnh dịch lưu hành, bệnh truyền nhiễm mùa Đông - Xuân, bệnh truyền lây từ động vật sang người. Triển khai các hoạt động giám sát phát hiện sớm ca mắc bệnh truyền nhiễm và các công tác phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm theo quy định.
Công tác văn hóa - thể thao: Năm 2024, triển khai hiệu quả các hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan, văn hóa, nghệ thuật, thể thao phục vụ nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Tổ chức thành công các hoạt động chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của cả nước và thành phố, đặc biệt chương trình nghệ thuật “Hải Phòng - bừng sáng miền di sản” gắn với Lễ trao bằng Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà lần đầu tiên được tổ chức tại Quảng trường Khu đô thị mới Bắc Sông Cấm.
đ) Tai nạn giao thông
Trong năm 2024, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 510 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 04 vụ tai nạn giao thông đường sắt và 02 vụ tai nạn giao thông đường thủy. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 229 người và bị thương 380 người. So với năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 48 vụ (tương ứng giảm 8,51%); số người chết giảm 51 người (tương ứng giảm 18,21%) và số người bị thương giảm 25 người người (tương ứng giảm 6,17%).
e) Thiệt hại do thiên tai và phòng chống cháy nổ
Trong năm 2024, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 247 vụ cháy, tăng 135 vụ so với năm trước; số người chết là 05 người, giảm 03 người so với năm trước và bị thương 02 người, bằng với năm trước; giá trị thiệt hại về tài sản quy ra là 2,57 tỷ đồng. Nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao tại một số nhà dân và cơ quan, doanh nghiệp; một số vụ cháy thảm thực bì rừng; các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản./.
Tác giả: CỤC THỐNG KÊ TP HẢI PHÒNG
-
Infographic tình hình Kinh tế - Xã hội năm 2024 thành phố Hải Phòng
03/01/2025 -
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11, 11 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
03/12/2024 -
Infographic tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 11, 11 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
02/12/2024 -
Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10, 10 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
04/11/2024 -
Infographic tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 10, 10 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
04/11/2024 -
Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, 9 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
08/10/2024
- Hải Phòng trong nhóm 5 tỉnh, thành phố có quy mô kinh tế lớn nhất cả nước
- Dấu ấn tăng trưởng tạo đà bứt phá năm 2025
- Thành phố Hải Phòng: Dấu ấn đậm nét trong phát triển kinh tế -xã hội năm 2024
- Thống kê kết hợp với dữ liệu tạo ra lực lượng sản xuất mới trong thời đại số
- Sử dụng trí tuệ nhân tạo để giải đáp thắc mắc về Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025