Tổng quan tình hình thế giới năm 2021
Thứ sáu - 26/03/2021 10:43
Theo Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021 sau khi giảm 4,3% trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhận định, nền kinh tế toàn cầu sau khi tăng trưởng âm 3,5% vào năm 2020, dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021
Năm 2020, Đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng khắp toàn cầu đã khiến kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, trong đầu năm 2021, sau khi triển khai vắc xin hiệu quả và các nền kinh tế đối phó tốt hơn với dịch COVID-19, triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng gần đây. Theo Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021 sau khi giảm 4,3% trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhận định, nền kinh tế toàn cầu sau khi tăng trưởng âm 3,5% vào năm 2020, dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021. Các tổ chức kinh tế tài chính tư nhân như Conference Board và Fitch Ratings dự báo tăng trưởng thế giới năm 2021 tăng lần lượt là 5,0% và 6,1%. Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 5,6% trong năm 2021. Trong số các quốc gia phát triển, Hoa Kỳ được dự báo tăng trưởng 6,5%, khu vực đồng Euro tăng trưởng 3,9% trong năm 2021. Dự báo tăng trưởng của Nhật Bản và Trung Quốc lần lượt là 2,7% và 7,8% trong năm 2021. Đối với khu vực Đông Nam Á, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế dự báo Việt Nam và Ma-lai-xi-a là động lực tăng trưởng của khu vực khi cùng đạt mức 7,0% trong năm 2021. Phi-li-pin, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a được dự báo tăng trưởng tương ứng là 5,9%, 4,5% và 4,9% trong năm 2021. Trong ngắn hạn, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của thế giới trong Quý I/2021 tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng GDP Quý I/2021 so với cùng kỳ năm trước của Hoa Kỳ giảm 0,2; khu vực đồng Euro giảm 2,2%; Nhật Bản giảm -0,8% trong khi Trung Quốc tăng 19,3%. Dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2021 của Trading Economics đối với một số nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á gồm In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái Lan và Xin-ga-po lần lượt là 1,9%, -0,7%, -3,5%, -1,5% ,1,5% so với cùng kỳ năm trước.
I. XU HƯỚNG KINH TẾ VĨ MÔ TOÀN CẦU
1. Kinh tế toàn cầu tiếp tục đà phục hồi
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) , sau khi suy thoái trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 chỉ đạt 3,8% do tác động lâu dài của đại dịch đối với tăng trưởng tiềm năng. Kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ phục hồi mạnh khi niềm tin, tiêu dùng và thương mại dần được cải thiện nhờ nỗ lực tiêm chủng trên toàn thế giới. Các nền kinh tế phát triển được dự báo sẽ phục hồi, với mức tăng trưởng lần lượt đạt 3,3% và 3,5% vào năm 2021 và 2022. Tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo đạt 5% vào năm 2021 nhờ kinh tế của Trung Quốc được phục hồi và giảm xuống 4,2% vào năm 2022.
Cũng theo WB , chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tổng hợp toàn cầu tăng trong tháng 2/2021, đạt 53,2 điểm từ mức 52,3 điểm của tháng 1/2021. Những diễn biến tích cực trong đối phó với đại dịch giúp cải thiện tâm lý nhà đầu tư. Chỉ số niềm tin kinh tế toàn cầu (Sentix) tăng 11 tháng liên tiếp, đạt 20,5 điểm trong tháng 3/2021, mức cao nhất kể từ tháng 3/2018.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và triển khai vắc xin sẽ thúc đẩy các hoạt động kinh tế toàn cầu. Sau khi tăng trưởng - 3,5% vào năm 2020, nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021 và 4,2% vào năm 2022. Dự báo tăng trưởng của năm 2021 được điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 10/2020, phản ánh kỳ vọng tăng cường hoạt động kinh tế thông qua nỗ lực tiêm vắc-xin và hỗ trợ chính sách bổ sung ở một số nền kinh tế lớn. Sự phục hồi được dự báo sẽ khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Trong số các nền kinh tế phát triển, Hoa Kỳ và Nhật Bản dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng trước đại dịch (2019) vào nửa cuối năm 2021, trong khi khu vực đồng Euro và Vương quốc Anh sẽ đạt mức tăng trưởng trước đại địch vào năm 2022. Các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo cũng có mức phục hồi khác nhau. Đối với Trung Quốc, quá trình phục hồi kinh tế sẽ nhanh hơn nhờ áp dụng các biện pháp ngăn chặn dịch hiệu quả, đầu tư công mạnh mẽ và hỗ trợ thanh khoản của ngân hàng trung ương cao. Các nền kinh tế dựa vào du lịch đối mặt với nhiều khó khăn do du lịch xuyên biên giới bị tác động nặng nề bởi đại dịch.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng gần đây, nhờ triển khai vắc xin hiệu quả, hỗ trợ tài chính bổ sung ở một số quốc gia và nhiều dấu hiệu cho thấy các nền kinh tế đang đối phó tốt hơn với dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt 5,6% trong năm 2021 và 4% trong năm 2022, nhờ giá trị sản xuất toàn cầu tăng cao hơn mức trước đại dịch vào thời điểm giữa năm 2021. Tuy nhiên, tăng trưởng có dấu hiệu phân hóa giữa các quốc gia và các lĩnh vực. Các biện pháp ngăn chặn dịch COVID-19 nghiêm ngặt sẽ kìm hãm tăng trưởng ở một số quốc gia và ngành dịch vụ trong thời gian tới, trong khi những quốc gia khác sẽ được hưởng lợi từ các chính sách y tế công cộng hiệu quả, triển khai vắc xin nhanh hơn và hỗ trợ chính sách mạnh mẽ.
Theo Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021 của Conference Board , sau khi giảm 3,7% trong năm 2020, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 được dự báo tăng 5,0% (cao hơn mức 4,4% trong báo cáo đưa ra vào tháng 2/2021). Conference Board điều chỉnh tăng dự báo trong tháng 3/2021 do dữ liệu GDP Quý IV/2020 của một số quốc gia tăng mạnh hơn dự kiến (Ấn Độ, Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ), cũng như điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ sau khi quốc gia này công bố gói tài khóa 1,9 nghìn tỷ đô la Mỹ. Việc triển khai vắc-xin sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tốc độ phục hồi toàn cầu từ Quý II hoặc Quý III/2021, tuy nhiên hoạt động của các ngành bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 như dịch vụ sẽ chỉ phục hồi vào giữa năm 2022 tại các nền kinh tế phát triển. Trong phần lớn các quốc gia đang phát triển và các thị trường mới nổi, quá trình phục hồi có thể lâu hơn khiến cho triển vọng tăng trưởng trong những năm tới vẫn chưa thực sự khả quan, đặc biệt là đối với châu Phi cận Sa-ha-ra và châu Mỹ La-tinh.
Trong Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021, Fitch Ratings nhận định triển vọng tăng trưởng toàn cầu đang được cải thiện khi hỗ trợ tài chính được tăng cường mạnh mẽ, các nền kinh tế thích ứng tốt hơn với các điều kiện giãn cách xã hội và động lực từ triển khai tiêm chủng trên thế giới. Theo đó, GDP toàn cầu sau khi giảm 3,4% trong năm 2020 sẽ tăng lên 6,1% trong năm 2021 do tăng trưởng Quý IV/2020 mạnh hơn dự kiến tại châu Âu và các thị trường mới nổi. Trong ngắn hạn, Fitch Rating dự báo tăng trưởng GDP của thế giới trong Quý I/2021 tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước và 0,2% so với quý trước.
2. Tổng quan biến động thị trường thế giới
Thương mại hàng hóa phục hồi mạnh mẽ nhưng triển vọng tăng trưởng thương mại dịch vụ còn khá mong manh
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) , thương mại phục hồi mạnh mẽ nhưng động lực có thể không kéo dài. Tăng trưởng thương mại hàng hóa toàn cầu phục hồi trong Quý III/2020 và tăng tương đối mạnh trong Quý IV/2020, tuy nhiên, tốc độ tăng này khó có thể duy trì trong nửa đầu năm 2021 vì các chỉ số quan trọng hàng đầu dường như đã đạt mức cao nhất. Chỉ số thước đo thương mại hàng hóa trong tháng 2/2021 đạt 103,9 cao hơn mức 100,7 trong tháng 11/2020, thể hiện sự cải thiện rõ rệt của thương mại hàng hóa kể từ khi chỉ số này giảm mạnh trong nửa đầu năm 2020. Tất cả các chỉ số thành phần đều nằm trên xu hướng, nhưng một số chỉ số đã có dấu hiệu giảm đà tăng hoặc sụt giảm trong thời gian tới. Các chỉ số về đơn hàng xuất khẩu (103,4) và sản phẩm ô tô (99,8), những chỉ số quan trọng phản ánh thương mại thế giới, vừa đạt đỉnh gần đây và bắt đầu mất đà. Ngược lại, hai chỉ số vận chuyển công-ten-nơ (107,3) và hàng không (99,4) vẫn đang tăng. Bên cạnh đó, mặc dù các chỉ số về linh kiện điện tử (105,1) và nguyên liệu thô (106,9) cao hơn chỉ số chung nhưng có thể là do dự trữ hàng tồn kho tạm thời đang cao. Tổng hợp lại, những xu hướng này cho thấy đà đi lên của thương mại có thể sắp đạt đỉnh.
Ngược lại, thương mại dịch vụ vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi rõ nét. Thương mại dịch vụ toàn cầu trong Quý II/2020 giảm 24% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu thống kê WTO công bố ngày 26/1/2021. Dữ liệu sơ bộ cho thấy, trong tháng 11/2020, thương mại dịch vụ vẫn thấp hơn 16% so với mức của năm 2019. Triển vọng phục hồi vẫn kém vì đợt lây nhiễm COVID-19 thứ hai đòi hỏi các biện pháp ngăn chặn mới, chặt chẽ hơn ở nhiều quốc gia, với các hạn chế thắt chặt đối với du lịch và các dịch vụ liên quan kéo dài đến Quý I/2021. Du lịch vẫn là lĩnh vực dịch vụ bị ảnh hưởng nhiều nhất, giảm 68% trên toàn cầu so với cùng kỳ năm 2019. Trong Quý III/2020, chi tiêu của khách quốc tế giảm 88% ở châu Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, 80% ở cả châu Á và châu Phi, 78% ở Bắc Mỹ và 55% ở châu Âu.
Giá cả trên thị trường hàng hóa có xu hướng phục hồi
WB nhận định giá hàng hóa tiếp tục phục hồi, với giá năng lượng tăng 10% và giá các mặt hàng phi năng lượng tăng 4% trong tháng 01/2021. Giá dầu tiếp tục tăng trong tháng 02/2021 bất chấp việc Cơ quan Năng lượng Quốc tế hạ thấp triển vọng nhu cầu dầu trong nửa đầu năm 2021 do các đợt ngừng hoạt động mới. Giá dầu thô Brent đạt 65 USD/thùng lần đầu tiên trong năm, được hỗ trợ bởi quyết định hạn chế sản xuất của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác. Giá kim loại cũng đang tăng, phần lớn là do nhu cầu mạnh mẽ từ Trung Quốc. Giá nông sản tiếp tục tăng, tăng 5% trong tháng 01/2021, đạt mức cao nhất kể từ năm 2014. Mức tăng lớn nhất là giá ngũ cốc và hạt có dầu do nhu cầu tăng cao từ Trung Quốc và sự thiếu hụt sản lượng ở một số khu vực, chẳng hạn như sụt giảm sản lượng đậu tương ở Nam Mỹ và dầu cọ ở Nam Á do thời tiết khô hạn.
Điều kiện tài chính toàn cầu giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư
Theo WB, chi phí đi vay vẫn ở mức thấp. Trong tháng 02/2021, thị trường chứng khoán toàn cầu đạt mức cao trong nhiều năm khi giá tài sản tiếp tục tăng do kỳ vọng vào các biện pháp kích thích kinh tế mới tại Hoa Kỳ và triển vọng đối phó với đại dịch có dấu hiệu cải thiện. Các điều kiện tài chính tương đối thuận lợi khi các ngân hàng trung ương lớn tái khẳng định việc tiếp tục mua tài sản. Chi phí đi vay của doanh nghiệp đang ở mức thấp. Việc định giá vốn cổ phần cao và lãi suất thấp cũng đang thúc đẩy hoạt động huy động vốn cổ phần trên toàn cầu. Các tập đoàn đã huy động được gần 150 tỷ USD vốn chủ sở hữu đến thời điểm tháng 02/2021, gấp hơn hai lần so với một năm trước.
IMF dự báo các ngân hàng trung ương lớn sẽ duy trì lãi suất chính sách ở mức hiện tại đến cuối năm 2022. Do đó, các điều kiện tài chính được kỳ vọng sẽ duy trì ở mức hiện tại đối với các nền kinh tế phát triển trong khi dần dần được cải thiện đối với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi. Các chính sách như vậy sẽ tác động lan tỏa tích cực đối với các nền kinh tế và giảm khả năng thay đổi danh mục đầu tư.
Đã xuất hiện một số dấu hiệu của lạm phát nhưng chưa thực sự rõ ràng
OECD cho biết triển vọng phục hồi bền vững toàn cầu được phản ánh trong kỳ vọng gia tăng về lạm phát trong tương lai, đặc biệt là trên các thị trường tài chính. Lạm phát gần đây đã có dấu hiệu tăng lên ở nhiều nền kinh tế phát triển và duy trì tương đối cao tại một số nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, một phần do giá hàng hóa tăng vọt và giảm giá tiền tệ. Nhu cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến, đặc biệt của Trung Quốc, cùng với thiếu hụt nguồn cung, đã làm giá lương thực và kim loại tăng đáng kể, và giá dầu đã phục hồi trở lại mức trung bình của năm 2019. Tình trạng thiếu hụt nguồn cung tạm thời trong các lĩnh vực như chất bán dẫn và vận chuyển, cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào. Tuy nhiên, áp lực giá ở các nền kinh tế phát triển nhìn chung vẫn ở mức nhẹ, phản ánh năng lực dự phòng khá lớn và thị trường lao động vẫn còn yếu. Tại các nền kinh tế mới nổi lớn, lạm phát có thể cao hơn dự kiến nếu đồng nội tệ giảm giá so với đồng đô la Mỹ. Giá hàng hóa cao hơn cũng sẽ làm tăng lạm phát ở các nước nhập khẩu hàng hóa ròng như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Dòng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi mất dần động lực
Báo cáo của WB cho thấy sau khi phục hồi nhanh chóng vào cuối năm ngoái, dòng vốn đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đã mất dần động lực vào cuối tháng 01/2021 do tâm lý ngại rủi ro toàn cầu tăng đột biến đã kích hoạt rút vốn cổ phần, đặc biệt từ các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi ở Đông Á và Thái Bình Dương. Đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, trừ Trung Quốc, giảm mạnh trong năm 2020. Suy giảm mạnh nhất ở châu Mỹ La-tinh, Ca-ri-bê và Nam Á, nơi tăng trưởng GDP giảm nhiều nhất. Khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc và Việt Nam, có mức giảm đầu tư nhỏ nhất trong năm 2020 do được hỗ trợ bởi các chương trình kích thích tài khóa lớn. Ngay cả khi đại dịch dự kiến sẽ dần kết thúc vào năm 2021, mức phục hồi ngắn hạn trong đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển được dự đoán đạt 5,7%, thấp hơn nhiều so với con số 10,8% của năm 2010 sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đối với hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, tăng trưởng đầu tư trong vài năm tới sẽ duy trì bằng hoặc thấp hơn tốc độ trung bình của những năm 2010.
Thất nghiệp có xu hướng tăng
Các điều kiện thị trường lao động đang phục hồi chậm. Các biện pháp duy trì việc làm như chương trình việc làm ngắn hạn và trợ cấp lương tiếp tục giúp duy trì việc làm ở châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, tại các nền kinh tế OECD, gần 10 triệu người thất nghiệp so với trước khủng hoảng, tỷ lệ lao động không tham gia hoạt động kinh tế gia tăng và tỷ lệ lao động có việc làm giảm. Ở các nước đang phát triển, tình trạng mất việc cao đáng kể đã làm gia tăng tình trạng nghèo đói và bần cùng hóa hàng triệu người lao động. Sự suy giảm việc làm chủ yếu tập trung vào các hoạt động dịch vụ, như giải trí, khách sạn, vận tải và thương mại bán buôn, bán lẻ, chiếm từ 20-30% việc làm ở hầu hết các nền kinh tế, cho thấy tính chất bấp bênh của nhiều công việc trừ khi vắc-xin được triển khai nhanh chóng và nới lỏng các biện pháp phong tỏa.
Theo Liên hợp quốc , đến tháng 4/2020, các biện pháp đóng cửa toàn bộ hoặc một phần đã ảnh hưởng đến gần 2,7 tỷ người lao động, chiếm khoảng 81% lực lượng lao động trên thế giới. Tổng số giờ làm việc bị mất trung bình trong ba quý đầu năm 2020 là 10,7%, tương ứng với 3,5 nghìn tỷ đô la thu nhập lao động bị mất, tương đương với khoảng 5,5% sản lượng toàn cầu năm 2019. Tỷ lệ thất nghiệp của các quốc gia thành viên OECD tăng lên đến 8,8% vào tháng 4/2020, trước khi giảm xuống còn 6,9% vào tháng 11/2020. Tỷ lệ thất nghiệp có thể vẫn tăng trở lại ở mức khoảng 8% hoặc cao hơn trong đầu năm 2021, khi Pháp, Đức và Vương quốc Anh tái áp dụng các biện pháp phong tỏa.
3. Một số rủi ro đối với tăng trưởng toàn cầu
Theo WB, phục hồi kinh tế toàn cầu có thể bị ảnh hưởng bởi một số rủi ro sau:
Thứ nhất, đại dịch có thể tiếp tục lây lan khi triển khai vắc xin chậm trễ hoặc không đầy đủ. Ngay cả khi thực hiện giãn cách xã hội và áp dụng các biện pháp kiểm soát đại dịch, làn sóng lây lan bổ sung vẫn sẽ là nguy cơ cho đến khi đạt được tiêm chủng hiệu quả trên diện rộng. Tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia đã hứng chịu đợt bùng phát dịch COVID-19 lớn nhất, vẫn chưa thể đạt mức miễn dịch cộng đồng. Các đợt bùng phát có thể phát sinh do sự xuất hiện của các chủng COVID-19 mới, độc hại hơn. Bên cạnh đó, nỗ lực sớm nới lỏng các biện pháp ngăn chặn, chẳng hạn như mở cửa lại hoàn toàn các trường học hoặc cơ sở kinh doanh khi tỷ lệ lây nhiễm vẫn còn cao, hoặc thiếu tuân thủ các hướng dẫn về sức khỏe cũng là nguy cơ làm tái bùng phát dịch COVID-19.
Thứ hai, rủi ro của các cuộc khủng hoảng tài chính đang gia tăng do gia tăng nợ, hoạt động của hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng. Hỗ trợ tài chính và vay nợ của khu vực tư nhân để chống chọi với cú sốc từ dịch COVID-19 đã làm nợ tăng cao. Mặc dù lãi suất thấp giúp giảm thiểu rủi ro cho một số quốc gia, nhưng mức nợ tăng cao vẫn làm tăng tính dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của điều kiện thị trường và làm cho các cuộc khủng hoảng dễ xảy ra hơn.
Thứ ba, suy thoái và dịch bệnh đều có thể có những tác động tiêu cực lâu dài đến sự phát triển của các nước bị ảnh hưởng thông qua nhiều kênh khác nhau. Do đó, dẫn đến nguy cơ phá sản các công ty, khiến người lao động không có việc làm, ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính và tăng gánh nặng nợ nần. Dịch bệnh cũng dẫn đến tình trạng thất học và tình trạng sức khỏe tồi tệ hơn. Dịch COVID-19 dự kiến sẽ làm giảm đáng kể mức tăng trưởng sản lượng tiềm năng so với trước đại dịch.
Thứ tư, hợp tác toàn cầu xói mòn hơn nữa sẽ làm giảm khả năng ứng phó của thế giới với các vấn đề xuyên quốc gia ngày càng cấp bách, gồm các cuộc khủng hoảng y tế trong tương lai cũng như biến đổi khí hậu và đói nghèo toàn cầu. Điều này sẽ gây tổn hại đặc biệt cho các quốc gia áp dụng chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu.
II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp nhưng đã xuất hiện những dấu hiệu phục hồi và niềm tin vào sự phát triển của vắc-xin tăng lên, IMF, WB và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra dự báo khả quan về triển vọng kinh tế của một số nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Cụ thể:
1. Hoa Kỳ
Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ dự báo đạt 3,5% trong năm 2021, do nhu cầu yếu trong bối cảnh hạn chế mới và bùng phát dịch COVID-19 trên diện rộng trong những tháng đầu năm. Hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ dự kiến sẽ tăng trong 6 tháng cuối năm 2021 khi dịch COVID-19 được ngăn chặn nhờ phát triển được vắc-xin và nới lỏng biện pháp kiểm soát đại dịch.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng tổng hợp (PMI) trong tháng 2 được điều chỉnh cao hơn, đạt 59,5 điểm, tăng so với ước tính sơ bộ (58,8 điểm), chủ yếu nhờ hoạt động của khu vực tư nhân diễn biến tích cực. Giá trị sản xuất của khu vực dịch vụ tăng cao nhất trong hơn 6 năm qua. Tăng trưởng đơn hàng mới của khu vực tư nhân đạt mức nhanh nhất kể từ tháng 4/2018 trong khi việc làm tăng không đáng kể.
IMF điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ năm 2021 lên thêm 2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10 năm 2020. OECD cũng nhận định nhờ các gói kích cầu tài chính lớn của Hoa Kỳ cùng với tốc độ phát triển vắc-xin nhanh chóng và nhu cầu tăng của các đối tác thương mại lớn nên OECD điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của nước này tăng lên thêm trên 3 điểm phần trăm cho năm 2021, đạt 6,5%.
Theo Conference Board nền kinh tế Hoa Kỳ được kỳ vọng sẽ tăng trưởng trở lại từ Quý II/2021. Tăng trưởng GDP năm 2021 dự báo đạt 5,5%, sau khi giảm 3,5% trong năm 2020 với giả định các ca mắc mới COVID-19 đạt đỉnh trong những tháng đầu năm nay và không dẫn đến tình trạng phong tỏa trên diện rộng. Sản xuất vắc-xin sẽ tăng trong những tháng tiếp theo, dự kiến tiêm chủng mở rộng sẽ thực hiện được trong Quý II và nhân rộng trong Quý III/2021. Gói cứu trợ bổ sung 1,9 nghìn tỷ sẽ được triển khai trong Quý II và Quý III giúp tiêu dùng và thị trường lao động Hoa Kỳ phục hồi nhanh chóng.
Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 6,2% trong năm 2021. Động lực chính cho tăng trưởng là gói kích cầu tài chính lớn hơn dự kiến, trị giá 1,9 nghìn tỷ đô la chiếm hơn 2,5% GDP toàn cầu, vừa mới được chính phủ Hoa Kỳ thông qua.
Đối với tăng trưởng Quý I/2021 của Hoa Kỳ, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ giảm 0,2% trong Quý I/2021 so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng 1% so với quý trước. Trong khi đó, Trading Economics cho rằng GDP Quý I/2021 của Hoa Kỳ tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,5% so với quý trước.
2. Khu vực đồng Euro
Sau khi kinh tế suy thoái mạnh do đại dịch lịch sử gây ra, phục hồi hoạt động kinh tế trong Quý III/2020 của khu vực đồng Euro một lần nữa lại bị gián đoạn do bùng phát làn sóng COVID-19 lần thứ hai. Điều này đã buộc nhiều quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt để hạn chế lây lan dịch bệnh. Một số ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế khu vực, đặc biệt là ngành du lịch vẫn chưa có khả năng phục hồi.
Mặc dù đại dịch diễn biến xấu, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tiếp tục phục hồi nhờ nhu cầu ngoài nước tăng cao. Trong bối cảnh suy thoái lịch sử toàn cầu, các ứng phó chính sách được triển khai một cách sâu rộng và chắc chắn. Các gói hỗ trợ tài chính do Liên minh châu Âu cung cấp thông qua khoản tài trợ cho các quốc gia thành viên bị ảnh hưởng nặng nề dự kiến sẽ hỗ trợ hoạt động và phát huy tác dụng từ năm 2021.
Sau khi giảm mạnh 7,4% trong năm 2020, tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro dự báo sẽ phục hồi, tăng 3,6% trong năm 2021, và đạt 4% vào năm 2022 khi tiêm chủng mở rộng được triển khai rộng rãi, góp phần thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư.
Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 2/2021 của khu vực đồng Euro được điều chỉnh tăng, đạt 48,1 điểm (cao hơn so với con số ước tính sơ bộ 48,0 đưa ra trước đây). Chỉ số PMI bị tác động mạnh do khu vực tư nhân sụt giảm liên tiếp trong 4 tháng. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ vẫn giảm mạnh nhưng ngành chế biến chế tạo đã tăng trở lại, tiệm cận mức cao của 3 năm gần đây. Tổng đơn hàng mới giảm 5 tháng liên tiếp mặc dù xuất khẩu tăng mạnh nhất trong gần 3 năm và việc làm tăng lần đầu tiên trong một năm qua.
Theo Fitch Ratings, khu vực đồng Euro triển khai tiêm chủng vắc-xin chậm hơn Anh và Hoa Kỳ nhưng chương trình sẽ tăng tốc trong Quý II/2021. Khủng hoảng y tế sẽ bớt căng thẳng vào giữa năm nay. Tuy nhiên, khởi động chương trình vắc-xin chậm và những vấn đề về tiêm chủng vẫn là nguy cơ chính của dự báo tăng trưởng chậm cho khu vực này. Tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro dự báo đạt 4,7% trong năm 2021.
Trong ngắn hạn, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2021 của khu vực đồng Euro giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước, giảm 1% so với quý trước.
3. Nhật Bản
Sớm quản lý hiệu quả đại dịch COVID-19, cùng với các gói hỗ trợ tài chính lớn chưa từng có của Chính phủ đã thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế Nhật Bản phục hồi trong Quý III/2020. Tuy nhiên, quá trình phục hồi nhanh chóng bị mất động lực khi làn sóng COVID-19 lần thứ hai bùng phát trở lại làm giảm tiêu dùng. Sau khi tăng trưởng kinh tế ước tính giảm khoảng 5,3% năm 2020, hoạt động kinh tế dự báo sẽ tăng 2,5% trong năm 2021 khi gói kích thích tài chính bổ sung được triển khai và các ca mắc COVID-19 mới ở mức thấp, đại dịch từng bước được kiểm soát và các biện pháp kiềm chế dịch bệnh dần được dở bỏ. Tăng trưởng dự báo đạt 2,3% trong năm 2022.
Chỉ số PMI tổng hợp tháng 02/2021 của Nhật Bản được điều chỉnh tăng, đạt 48,2 điểm, tăng so với ước tính sơ bộ 47,6 điểm. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của nền kinh tế Nhật Bản vẫn tiếp tục đà giảm trong 13 tháng qua do quốc gia này vẫn đang phải đương đầu với làn sóng lây nhiễm COVID-19 mới. Hoạt động chế biến chế tạo ghi nhận sản lượng tăng lần đầu tiên kể từ tháng 12/2018 trong khi hoạt động dịch vụ vẫn tiếp tục giảm. Đơn hàng mới giảm nhưng việc làm tăng lần đầu tiên trong một năm qua. Chỉ số niềm tin người tiêu dùng giảm xuống còn 29,6 trong tháng 01/2021, mức thấp nhất kể từ tháng 8/2020. Chỉ số PMI dịch vụ giảm, từ 46,1 điểm trong tháng 01/2021 xuống 45,8 điểm trong tháng 02/2021, trong khi đó chỉ số PMI chế biến chế tạo đã tăng mạnh từ 49,2 điểm lên 51,3 điểm.
Theo Fitch Ratings, dự báo GDP Quý I/2021 của Nhật Bản giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước và không thay đổi so với quý trước. Trong khi đó, theo các chuyên gia phân tích của Trading Economics, GDP Quý I/2021 của Nhật Bản dự kiến giảm 1% so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng 0,9% so với quý trước.
4. Trung Quốc
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 2% năm 2020, tốc độ tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 1976 nhưng cao hơn các mức dự báo đưa ra trước đó, nhờ kiểm soát đại dịch hiệu quả và kích thích đầu tư công. Phục hồi kinh tế đã vững chắc nhưng không đồng đều, tiêu dùng phục hồi chậm hơn sản xuất công nghiệp. Trong năm 2020, nhập khẩu tăng trưởng chậm lại, xuất khẩu phục hồi, góp phần làm tăng thặng dư tài khoản vãng lai.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc dự báo đạt 7,9% trong năm 2021 do nhu cầu bị dồn nén được bung ra sau đại dịch. Dự báo GDP của quốc gia này tăng 5,2% năm 2022.
Chỉ số PMI tổng hợp của nền kinh tế Trung Quốc trong tháng 02/2021 giảm xuống còn 51,7 điểm (so với 52,2 điểm trong tháng 01/2021). Giá trị sản xuất của ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến chế tạo đều đạt tốc độ khiêm tốn. Tăng trưởng đơn hàng mới ở mức thấp trong 10 tháng qua, trong khi đó việc làm lần đầu tiên giảm kể từ tháng 7/2020. Chi phí đầu vào tiếp tục tăng mạnh.
Fitch Ratings đưa ra những đánh giá khá khả quan về nền kinh tế Trung Quốc. Quốc gia này là nền kinh tế lớn duy nhất đang bắt đầu bình thường hóa các chính sách kinh tế vĩ mô, thâm hụt tài khóa được thu hẹp và tăng trưởng tín dụng chậm lại khi nền kinh tế phục hồi. Fitch Ratings dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2021 đạt 8,4%.
Về dự báo tăng trưởng Quý I/2021, Fitch Ratings cho rằng nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 19,3% so với cùng kỳ năm trước nhưng chỉ tăng 0,2% so với quý trước. Trading Economics thì dự báo khiêm tốn hơn khi cho rằng GDP Quý I/2021 của Trung Quốc tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,6% so với quý trước.
5. Đông Nam Á
Theo OECD , đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng ở châu Á gồm: Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ. Sự phục hồi trong Quý III/2020 đã bị gián đoạn do đại dịch bùng phát trở lại. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng năm 2020 đã được điều chỉnh tăng so với các dự báo được công bố trong tháng 7 và tháng 11/2020.
OECD dự báo tăng trưởng GDP thực tế trung bình của ASEAN năm 2021 đạt 5,1%, sau khi giảm 3,4% vào năm 2020. Tuy nhiên, tăng trưởng sẽ không đồng đều giữa các quốc gia. Việt Nam đã phục hồi nhanh chóng (tăng 2,6% vào năm 2020), nhờ sớm kết thúc giai đoạn đóng cửa vào đầu năm 2020, nhu cầu nước ngoài tăng và các chính sách hỗ trợ có mục tiêu. Tuy vậy, tăng trưởng GDP thực tế năm 2020 giảm mạnh ở Phi-li-pin (-9,0%).
Tại In-đô-nê-xi-a , các biện pháp kiểm soát liên quan đến dịch COVID-19 được thực hiện chậm hơn và được nới lỏng sớm hơn so với các nước bị ảnh hưởng tương tự. Do đó, số lượng các trường hợp nhiễm COVID-19 tăng đột biến trong những tuần gần đây. Tiêu dùng tư nhân bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng vào năm 2020, bảng cân đối kế toán của các doanh nghiệp yếu hơn cũng đã hạn chế đầu tư tư nhân. Giá cả hàng hóa và lĩnh vực du lịch yếu kém có thể làm giảm tăng trưởng hơn nữa. Sau khi tăng trưởng của quốc gia này tăng trưởng âm 2,1% vào năm 2020, GDP thực tế được dự báo sẽ tăng trở lại vào năm 2021, đạt 4,9%.
Đại dịch và việc thực hiện trở lại các hạn chế trong nỗ lực chống dịch COVID-19 ở Ma-lai-xi-a đã dẫn đến tình trạng suy thoái chưa từng có trong hoạt động kinh tế của quốc gia này trong năm 2020, với GDP thực tế dự kiến giảm 5,2%. Dự báo tăng trưởng kinh tế của Ma-lai-xi-a sẽ phục hồi vào năm 2021, đạt 7,0%. Sự tập trung vào nền kinh tế kỹ thuật số và các lĩnh vực tăng trưởng mới cũng như lợi ích từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) sẽ hỗ trợ tăng trưởng của Ma-lai-xi-a trong trung hạn.
Tại Phi-li-pin, đại dịch và các biện pháp hạn chế đã đẩy nền kinh tế vào cuộc suy thoái sâu trong năm 2020. GDP thực tế suy giảm nghiêm trọng nhất trong các nền kinh tế ASEAN vào năm 2020 (-9,0%). Đầu tư công và xuất khẩu ròng được kỳ vọng sẽ hỗ trợ kinh tế của Phi-li-pin phục hồi một phần vào năm 2021 (+ 5,9%), mặc dù chi phí nợ tăng và năng lực của chính phủ trong việc xử lý nợ vẫn là những rủi ro lớn đối với triển vọng tăng trưởng của quốc gia này. Đồng thời, sự không chắc chắn về du lịch quốc tế và sự phục hồi không rõ ràng ở các nền kinh tế lớn sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu dịch vụ và kiều hối từ người lao động ở nước ngoài về nước.
Thái Lan đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch. Phụ thuộc vào du lịch quốc tế khiến nước này bị tổn thương lớn bởi những cú sốc do hạn chế đi lại. Số lượng các ca nhiễm COVID-19 đã tăng đột biến trong vài tháng qua. Đồng baht Thái Lan tăng giá nhanh chóng của trong quý cuối cùng của năm 2020 là một lực cản khác đối với sự phục hồi kinh tế của quốc gia này. Vay nợ hộ gia đình tăng và căng thẳng xã hội leo thang có thể sẽ cản trở tăng trưởng của Thái Lan. Tăng trưởng kinh tế Thái Lan dự báo sẽ phục hồi vào năm 2021, đạt 4,5% sau khi tăng trưởng âm 6,4% trong năm 2020.
Tăng trưởng của nền kinh tế Xin-ga-po giảm mạnh vào năm 2020 do đại dịch (-5,5%). Nhu cầu bên ngoài sụt giảm, đặc biệt là đối với các dịch vụ kinh doanh, do hạn chế đi lại đã bóp nghẹt ngành du lịch. Tăng trưởng của Xin-ga-po dự báo sẽ phục hồi vào năm 2021, đạt 5,0%. Tuy nhiên, Xin-ga-po đạt được tốc độ tăng trưởng này hay không phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu bên ngoài.
Dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2021 của Trading Economics đối với một số nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á gồm In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái Lan và Xin-ga-po lần lượt là 1,9%, -0,7%, -3,5%, -1,5% ,1,5% so với cùng kỳ năm trước và 1%, 0,5%, 3%, 0,5%, 5% so với quý trước.
6. Việt Nam
Ngân hàng Thế giới
Báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 02/2021 của WB nhận định kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi trong tháng 01/2021 với tăng trưởng vững chắc về doanh số bán lẻ và sản xuất công nghiệp, cũng như kết quả tốt từ hoạt động ngoại thương.
Sản xuất công nghiệp trong tháng 01/2021 đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với thời kỳ trước đại dịch. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) giảm nhẹ từ 51,7 điểm vào tháng 12/2020 xuống còn 51,3 điểm vào tháng 01/2021, nhưng vẫn cho thấy tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, chủ yếu do sức cầu bên ngoài hơn là sức cầu trong nước.
Doanh số bán lẻ trong tháng 01/2021 cao hơn 1,5% so với tháng 12/2020, đạt tốc độ tăng trưởng 6,6% (so cùng kỳ năm trước), nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trước đại dịch. Tiếp tục đi theo quỹ đạo trong thời gian gần đây, thương mại hàng hóa đạt tăng trưởng kỷ lục vào tháng 01/2021. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng lần lượt 51,8% và 41,8% (so cùng kỳ năm trước).
Vốn FDI đăng ký đạt khoảng 2,0 tỷ đô la Mỹ trong tháng 01/2021, thấp hơn 3,9% so với tháng trước, và thấp hơn 62,2% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng tín dụng ổn định trở lại sau khi bật tăng mạnh vào cuối năm 2020. Mức tăng này khẳng định quy mô tín dụng dành cho khu vực tư nhân được đẩy nhanh, một phần do tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một phần do nhu cầu của cả doanh nghiệp và hộ gia đình tăng.
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã chống chịu rất tốt với khủng hoảng COVID-19, khảo sát tần suất cao qua điện thoại của Ngân hàng Thế giới vào tháng 01/2021 cho thấy gần một nửa các hộ gia đình cho biết thu nhập của họ vẫn thấp hơn so với năm trước, buộc họ phải vay mượn hoặc cắt giảm kế hoạch tiêu dùng và đầu tư. WB dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,7% trong năm 2021 và giảm nhẹ xuống 6,5% trong năm 2022.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Tháng 3/2021, trang thông tin điện tử của IMF (mục Trọng tâm quốc gia của IMF ) đã đăng báo cáo đánh giá về nền kinh tế Việt Nam, trong đó cho rằng Việt Nam đã chèo lái vượt qua đại dịch thành công. Cụ thể, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được khả năng chống chịu, tăng trưởng 2,9% trong năm 2020 (một trong những mức tăng trưởng cao nhất thế giới) và được dự báo sẽ tăng trưởng 6,5% trong năm 2021, nhờ các yếu tố nền tảng kinh tế vững chắc, các biện pháp kiểm soát dịch quyết liệt, và sự hỗ trợ đúng trọng tâm của Chính phủ.
Đánh giá của IMF chỉ ra rằng, Việt Nam bước vào đại dịch với các nền tảng kinh tế và vùng đệm chính sách vững chắc, mặc dù vẫn còn một số thách thức về cơ cấu cần phải giải quyết. Đầu tư nước ngoài mạnh và thặng dư tài khoản vãng lai đã tăng cường năng lực phục hồi của nền kinh tế. Dù vẫn còn một số điểm yếu, sức khỏe của hệ thống ngân hàng được cải thiện, với khả năng sinh lời, thanh khoản cao hơn và ít nợ xấu hơn so với trước kia. Việt Nam cũng đạt được tiến bộ đáng kể trong việc củng cố tài chính công trước dịch COVID-19. Việc xây dựng các vùng đệm về tài khóa và tài chính trước đại dịch đã giúp Việt Nam đương đầu tốt hơn với cú sốc và vẫn còn nhiều không gian chính sách để Việt Nam thúc đẩy năng suất và cải thiện khả năng phục hồi kinh tế.
Báo cáo của IMF cho rằng các chính sách kinh tế vĩ mô cần được duy trì trong năm 2021 để bảo đảm phục hồi bền vững và toàn diện. Các chính sách trong ngắn hạn cần tập trung vào việc duy trì việc làm và thúc đẩy sự phân bổ lại các nguồn lực. Mạng lưới an sinh xã hội hiện nay cần được mở rộng phạm vi bao phủ và nâng cao hiệu quả.
Sự phục hồi bền vững còn phụ thuộc vào việc bảo vệ ổn định tài chính. Dịch COVID-19 làm suy yếu thanh khoản và khả năng thanh toán của các doanh nghiệp Việt Nam, làm dấy lên những quan ngại về ổn định tài chính qua dư nợ tín dụng ngân hàng. Các chính sách tiền tệ, tài khoá và khu vực tài chính mà Chính phủ triển khai đã giúp giảm thiểu nguy cơ trước mắt về khả năng gia tăng mạnh phá sản doanh nghiệp và sa thải lao động hàng loạt. Việc tiếp tục giám sát chặt chẽ, kết hợp với những nỗ lực kịp thời nhằm xử lý các khoản vay có vấn đề và tăng cường các khuôn khổ quản lý và giám sát sẽ giúp khắc phục các rủi ro của hệ thống tài chính.
Việt Nam cần những cải cách quyết liệt hơn nữa để phát huy tối đa tiềm năng tăng trưởng của mình. Theo đó, ưu tiên hàng đầu là khắc phục tình trạng năng suất thấp còn phổ biến trong nền kinh tế. Cần ưu tiên cải thiện môi trường kinh doanh và đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải thiện khả năng tiếp cận nguồn lực của họ, tăng cường quản trị và tiếp cận công nghệ, đổi mới sáng tạo. Cải cách trong những lĩnh vực này cũng sẽ giúp Việt Nam gặt hái được lợi ích lớn hơn từ việc tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong một thế giới hậu đại dịch.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Các biện pháp ngăn chặn đại dịch ở Việt Nam thành công đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi tương đối nhanh vào năm 2020 (dự báo đạt 2,6%), mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực châu Á mới nổi. Khả năng phục hồi của khu vực công nghiệp đóng góp quyết định vào tăng trưởng, mặc dù các nhà máy lớn ban đầu bị ảnh hưởng bởi sự gián đoạn chuỗi cung ứng. GDP thực tế dự báo sẽ tăng 7,0% vào năm 2021.
Thời báo Nikkei châu Á
Việt Nam có thể dẫn đầu về tăng trưởng trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2021. Trong năm 2020, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế 2,9% nhờ thành công trong việc ngăn chặn vi rút, cùng với xuất khẩu mạnh mẽ hàng điện tử và các sản phẩm tiêu dùng khác. Trong năm 2021, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5%.
Xuất khẩu sẽ tiếp tục được hỗ trợ bởi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng hóa Trung Quốc. Để tránh thuế quan của Hoa Kỳ, các nhà nhập khẩu đã chuyển nhu cầu từ Trung Quốc sang các nhà cung cấp thay thế. Với quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc tiếp tục căng thẳng trong những năm tới, Việt Nam có thể hưởng lợi nhiều hơn.
Dự báo Quý I/2021
Theo Trading Economics, GDP Quý I/2021 của Việt Nam được dự báo tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
I. XU HƯỚNG KINH TẾ VĨ MÔ TOÀN CẦU
1. Kinh tế toàn cầu tiếp tục đà phục hồi
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) , sau khi suy thoái trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 chỉ đạt 3,8% do tác động lâu dài của đại dịch đối với tăng trưởng tiềm năng. Kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ phục hồi mạnh khi niềm tin, tiêu dùng và thương mại dần được cải thiện nhờ nỗ lực tiêm chủng trên toàn thế giới. Các nền kinh tế phát triển được dự báo sẽ phục hồi, với mức tăng trưởng lần lượt đạt 3,3% và 3,5% vào năm 2021 và 2022. Tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo đạt 5% vào năm 2021 nhờ kinh tế của Trung Quốc được phục hồi và giảm xuống 4,2% vào năm 2022.
Cũng theo WB , chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tổng hợp toàn cầu tăng trong tháng 2/2021, đạt 53,2 điểm từ mức 52,3 điểm của tháng 1/2021. Những diễn biến tích cực trong đối phó với đại dịch giúp cải thiện tâm lý nhà đầu tư. Chỉ số niềm tin kinh tế toàn cầu (Sentix) tăng 11 tháng liên tiếp, đạt 20,5 điểm trong tháng 3/2021, mức cao nhất kể từ tháng 3/2018.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và triển khai vắc xin sẽ thúc đẩy các hoạt động kinh tế toàn cầu. Sau khi tăng trưởng - 3,5% vào năm 2020, nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021 và 4,2% vào năm 2022. Dự báo tăng trưởng của năm 2021 được điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 10/2020, phản ánh kỳ vọng tăng cường hoạt động kinh tế thông qua nỗ lực tiêm vắc-xin và hỗ trợ chính sách bổ sung ở một số nền kinh tế lớn. Sự phục hồi được dự báo sẽ khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Trong số các nền kinh tế phát triển, Hoa Kỳ và Nhật Bản dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng trước đại dịch (2019) vào nửa cuối năm 2021, trong khi khu vực đồng Euro và Vương quốc Anh sẽ đạt mức tăng trưởng trước đại địch vào năm 2022. Các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo cũng có mức phục hồi khác nhau. Đối với Trung Quốc, quá trình phục hồi kinh tế sẽ nhanh hơn nhờ áp dụng các biện pháp ngăn chặn dịch hiệu quả, đầu tư công mạnh mẽ và hỗ trợ thanh khoản của ngân hàng trung ương cao. Các nền kinh tế dựa vào du lịch đối mặt với nhiều khó khăn do du lịch xuyên biên giới bị tác động nặng nề bởi đại dịch.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng gần đây, nhờ triển khai vắc xin hiệu quả, hỗ trợ tài chính bổ sung ở một số quốc gia và nhiều dấu hiệu cho thấy các nền kinh tế đang đối phó tốt hơn với dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt 5,6% trong năm 2021 và 4% trong năm 2022, nhờ giá trị sản xuất toàn cầu tăng cao hơn mức trước đại dịch vào thời điểm giữa năm 2021. Tuy nhiên, tăng trưởng có dấu hiệu phân hóa giữa các quốc gia và các lĩnh vực. Các biện pháp ngăn chặn dịch COVID-19 nghiêm ngặt sẽ kìm hãm tăng trưởng ở một số quốc gia và ngành dịch vụ trong thời gian tới, trong khi những quốc gia khác sẽ được hưởng lợi từ các chính sách y tế công cộng hiệu quả, triển khai vắc xin nhanh hơn và hỗ trợ chính sách mạnh mẽ.
Theo Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021 của Conference Board , sau khi giảm 3,7% trong năm 2020, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 được dự báo tăng 5,0% (cao hơn mức 4,4% trong báo cáo đưa ra vào tháng 2/2021). Conference Board điều chỉnh tăng dự báo trong tháng 3/2021 do dữ liệu GDP Quý IV/2020 của một số quốc gia tăng mạnh hơn dự kiến (Ấn Độ, Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ), cũng như điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ sau khi quốc gia này công bố gói tài khóa 1,9 nghìn tỷ đô la Mỹ. Việc triển khai vắc-xin sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tốc độ phục hồi toàn cầu từ Quý II hoặc Quý III/2021, tuy nhiên hoạt động của các ngành bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 như dịch vụ sẽ chỉ phục hồi vào giữa năm 2022 tại các nền kinh tế phát triển. Trong phần lớn các quốc gia đang phát triển và các thị trường mới nổi, quá trình phục hồi có thể lâu hơn khiến cho triển vọng tăng trưởng trong những năm tới vẫn chưa thực sự khả quan, đặc biệt là đối với châu Phi cận Sa-ha-ra và châu Mỹ La-tinh.
Trong Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021, Fitch Ratings nhận định triển vọng tăng trưởng toàn cầu đang được cải thiện khi hỗ trợ tài chính được tăng cường mạnh mẽ, các nền kinh tế thích ứng tốt hơn với các điều kiện giãn cách xã hội và động lực từ triển khai tiêm chủng trên thế giới. Theo đó, GDP toàn cầu sau khi giảm 3,4% trong năm 2020 sẽ tăng lên 6,1% trong năm 2021 do tăng trưởng Quý IV/2020 mạnh hơn dự kiến tại châu Âu và các thị trường mới nổi. Trong ngắn hạn, Fitch Rating dự báo tăng trưởng GDP của thế giới trong Quý I/2021 tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước và 0,2% so với quý trước.
2. Tổng quan biến động thị trường thế giới
Thương mại hàng hóa phục hồi mạnh mẽ nhưng triển vọng tăng trưởng thương mại dịch vụ còn khá mong manh
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) , thương mại phục hồi mạnh mẽ nhưng động lực có thể không kéo dài. Tăng trưởng thương mại hàng hóa toàn cầu phục hồi trong Quý III/2020 và tăng tương đối mạnh trong Quý IV/2020, tuy nhiên, tốc độ tăng này khó có thể duy trì trong nửa đầu năm 2021 vì các chỉ số quan trọng hàng đầu dường như đã đạt mức cao nhất. Chỉ số thước đo thương mại hàng hóa trong tháng 2/2021 đạt 103,9 cao hơn mức 100,7 trong tháng 11/2020, thể hiện sự cải thiện rõ rệt của thương mại hàng hóa kể từ khi chỉ số này giảm mạnh trong nửa đầu năm 2020. Tất cả các chỉ số thành phần đều nằm trên xu hướng, nhưng một số chỉ số đã có dấu hiệu giảm đà tăng hoặc sụt giảm trong thời gian tới. Các chỉ số về đơn hàng xuất khẩu (103,4) và sản phẩm ô tô (99,8), những chỉ số quan trọng phản ánh thương mại thế giới, vừa đạt đỉnh gần đây và bắt đầu mất đà. Ngược lại, hai chỉ số vận chuyển công-ten-nơ (107,3) và hàng không (99,4) vẫn đang tăng. Bên cạnh đó, mặc dù các chỉ số về linh kiện điện tử (105,1) và nguyên liệu thô (106,9) cao hơn chỉ số chung nhưng có thể là do dự trữ hàng tồn kho tạm thời đang cao. Tổng hợp lại, những xu hướng này cho thấy đà đi lên của thương mại có thể sắp đạt đỉnh.
Ngược lại, thương mại dịch vụ vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi rõ nét. Thương mại dịch vụ toàn cầu trong Quý II/2020 giảm 24% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu thống kê WTO công bố ngày 26/1/2021. Dữ liệu sơ bộ cho thấy, trong tháng 11/2020, thương mại dịch vụ vẫn thấp hơn 16% so với mức của năm 2019. Triển vọng phục hồi vẫn kém vì đợt lây nhiễm COVID-19 thứ hai đòi hỏi các biện pháp ngăn chặn mới, chặt chẽ hơn ở nhiều quốc gia, với các hạn chế thắt chặt đối với du lịch và các dịch vụ liên quan kéo dài đến Quý I/2021. Du lịch vẫn là lĩnh vực dịch vụ bị ảnh hưởng nhiều nhất, giảm 68% trên toàn cầu so với cùng kỳ năm 2019. Trong Quý III/2020, chi tiêu của khách quốc tế giảm 88% ở châu Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, 80% ở cả châu Á và châu Phi, 78% ở Bắc Mỹ và 55% ở châu Âu.
Giá cả trên thị trường hàng hóa có xu hướng phục hồi
WB nhận định giá hàng hóa tiếp tục phục hồi, với giá năng lượng tăng 10% và giá các mặt hàng phi năng lượng tăng 4% trong tháng 01/2021. Giá dầu tiếp tục tăng trong tháng 02/2021 bất chấp việc Cơ quan Năng lượng Quốc tế hạ thấp triển vọng nhu cầu dầu trong nửa đầu năm 2021 do các đợt ngừng hoạt động mới. Giá dầu thô Brent đạt 65 USD/thùng lần đầu tiên trong năm, được hỗ trợ bởi quyết định hạn chế sản xuất của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác. Giá kim loại cũng đang tăng, phần lớn là do nhu cầu mạnh mẽ từ Trung Quốc. Giá nông sản tiếp tục tăng, tăng 5% trong tháng 01/2021, đạt mức cao nhất kể từ năm 2014. Mức tăng lớn nhất là giá ngũ cốc và hạt có dầu do nhu cầu tăng cao từ Trung Quốc và sự thiếu hụt sản lượng ở một số khu vực, chẳng hạn như sụt giảm sản lượng đậu tương ở Nam Mỹ và dầu cọ ở Nam Á do thời tiết khô hạn.
Điều kiện tài chính toàn cầu giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư
Theo WB, chi phí đi vay vẫn ở mức thấp. Trong tháng 02/2021, thị trường chứng khoán toàn cầu đạt mức cao trong nhiều năm khi giá tài sản tiếp tục tăng do kỳ vọng vào các biện pháp kích thích kinh tế mới tại Hoa Kỳ và triển vọng đối phó với đại dịch có dấu hiệu cải thiện. Các điều kiện tài chính tương đối thuận lợi khi các ngân hàng trung ương lớn tái khẳng định việc tiếp tục mua tài sản. Chi phí đi vay của doanh nghiệp đang ở mức thấp. Việc định giá vốn cổ phần cao và lãi suất thấp cũng đang thúc đẩy hoạt động huy động vốn cổ phần trên toàn cầu. Các tập đoàn đã huy động được gần 150 tỷ USD vốn chủ sở hữu đến thời điểm tháng 02/2021, gấp hơn hai lần so với một năm trước.
IMF dự báo các ngân hàng trung ương lớn sẽ duy trì lãi suất chính sách ở mức hiện tại đến cuối năm 2022. Do đó, các điều kiện tài chính được kỳ vọng sẽ duy trì ở mức hiện tại đối với các nền kinh tế phát triển trong khi dần dần được cải thiện đối với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi. Các chính sách như vậy sẽ tác động lan tỏa tích cực đối với các nền kinh tế và giảm khả năng thay đổi danh mục đầu tư.
Đã xuất hiện một số dấu hiệu của lạm phát nhưng chưa thực sự rõ ràng
OECD cho biết triển vọng phục hồi bền vững toàn cầu được phản ánh trong kỳ vọng gia tăng về lạm phát trong tương lai, đặc biệt là trên các thị trường tài chính. Lạm phát gần đây đã có dấu hiệu tăng lên ở nhiều nền kinh tế phát triển và duy trì tương đối cao tại một số nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, một phần do giá hàng hóa tăng vọt và giảm giá tiền tệ. Nhu cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến, đặc biệt của Trung Quốc, cùng với thiếu hụt nguồn cung, đã làm giá lương thực và kim loại tăng đáng kể, và giá dầu đã phục hồi trở lại mức trung bình của năm 2019. Tình trạng thiếu hụt nguồn cung tạm thời trong các lĩnh vực như chất bán dẫn và vận chuyển, cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào. Tuy nhiên, áp lực giá ở các nền kinh tế phát triển nhìn chung vẫn ở mức nhẹ, phản ánh năng lực dự phòng khá lớn và thị trường lao động vẫn còn yếu. Tại các nền kinh tế mới nổi lớn, lạm phát có thể cao hơn dự kiến nếu đồng nội tệ giảm giá so với đồng đô la Mỹ. Giá hàng hóa cao hơn cũng sẽ làm tăng lạm phát ở các nước nhập khẩu hàng hóa ròng như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Dòng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi mất dần động lực
Báo cáo của WB cho thấy sau khi phục hồi nhanh chóng vào cuối năm ngoái, dòng vốn đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đã mất dần động lực vào cuối tháng 01/2021 do tâm lý ngại rủi ro toàn cầu tăng đột biến đã kích hoạt rút vốn cổ phần, đặc biệt từ các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi ở Đông Á và Thái Bình Dương. Đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, trừ Trung Quốc, giảm mạnh trong năm 2020. Suy giảm mạnh nhất ở châu Mỹ La-tinh, Ca-ri-bê và Nam Á, nơi tăng trưởng GDP giảm nhiều nhất. Khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc và Việt Nam, có mức giảm đầu tư nhỏ nhất trong năm 2020 do được hỗ trợ bởi các chương trình kích thích tài khóa lớn. Ngay cả khi đại dịch dự kiến sẽ dần kết thúc vào năm 2021, mức phục hồi ngắn hạn trong đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển được dự đoán đạt 5,7%, thấp hơn nhiều so với con số 10,8% của năm 2010 sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đối với hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, tăng trưởng đầu tư trong vài năm tới sẽ duy trì bằng hoặc thấp hơn tốc độ trung bình của những năm 2010.
Thất nghiệp có xu hướng tăng
Các điều kiện thị trường lao động đang phục hồi chậm. Các biện pháp duy trì việc làm như chương trình việc làm ngắn hạn và trợ cấp lương tiếp tục giúp duy trì việc làm ở châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, tại các nền kinh tế OECD, gần 10 triệu người thất nghiệp so với trước khủng hoảng, tỷ lệ lao động không tham gia hoạt động kinh tế gia tăng và tỷ lệ lao động có việc làm giảm. Ở các nước đang phát triển, tình trạng mất việc cao đáng kể đã làm gia tăng tình trạng nghèo đói và bần cùng hóa hàng triệu người lao động. Sự suy giảm việc làm chủ yếu tập trung vào các hoạt động dịch vụ, như giải trí, khách sạn, vận tải và thương mại bán buôn, bán lẻ, chiếm từ 20-30% việc làm ở hầu hết các nền kinh tế, cho thấy tính chất bấp bênh của nhiều công việc trừ khi vắc-xin được triển khai nhanh chóng và nới lỏng các biện pháp phong tỏa.
Theo Liên hợp quốc , đến tháng 4/2020, các biện pháp đóng cửa toàn bộ hoặc một phần đã ảnh hưởng đến gần 2,7 tỷ người lao động, chiếm khoảng 81% lực lượng lao động trên thế giới. Tổng số giờ làm việc bị mất trung bình trong ba quý đầu năm 2020 là 10,7%, tương ứng với 3,5 nghìn tỷ đô la thu nhập lao động bị mất, tương đương với khoảng 5,5% sản lượng toàn cầu năm 2019. Tỷ lệ thất nghiệp của các quốc gia thành viên OECD tăng lên đến 8,8% vào tháng 4/2020, trước khi giảm xuống còn 6,9% vào tháng 11/2020. Tỷ lệ thất nghiệp có thể vẫn tăng trở lại ở mức khoảng 8% hoặc cao hơn trong đầu năm 2021, khi Pháp, Đức và Vương quốc Anh tái áp dụng các biện pháp phong tỏa.
3. Một số rủi ro đối với tăng trưởng toàn cầu
Theo WB, phục hồi kinh tế toàn cầu có thể bị ảnh hưởng bởi một số rủi ro sau:
Thứ nhất, đại dịch có thể tiếp tục lây lan khi triển khai vắc xin chậm trễ hoặc không đầy đủ. Ngay cả khi thực hiện giãn cách xã hội và áp dụng các biện pháp kiểm soát đại dịch, làn sóng lây lan bổ sung vẫn sẽ là nguy cơ cho đến khi đạt được tiêm chủng hiệu quả trên diện rộng. Tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia đã hứng chịu đợt bùng phát dịch COVID-19 lớn nhất, vẫn chưa thể đạt mức miễn dịch cộng đồng. Các đợt bùng phát có thể phát sinh do sự xuất hiện của các chủng COVID-19 mới, độc hại hơn. Bên cạnh đó, nỗ lực sớm nới lỏng các biện pháp ngăn chặn, chẳng hạn như mở cửa lại hoàn toàn các trường học hoặc cơ sở kinh doanh khi tỷ lệ lây nhiễm vẫn còn cao, hoặc thiếu tuân thủ các hướng dẫn về sức khỏe cũng là nguy cơ làm tái bùng phát dịch COVID-19.
Thứ hai, rủi ro của các cuộc khủng hoảng tài chính đang gia tăng do gia tăng nợ, hoạt động của hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng. Hỗ trợ tài chính và vay nợ của khu vực tư nhân để chống chọi với cú sốc từ dịch COVID-19 đã làm nợ tăng cao. Mặc dù lãi suất thấp giúp giảm thiểu rủi ro cho một số quốc gia, nhưng mức nợ tăng cao vẫn làm tăng tính dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của điều kiện thị trường và làm cho các cuộc khủng hoảng dễ xảy ra hơn.
Thứ ba, suy thoái và dịch bệnh đều có thể có những tác động tiêu cực lâu dài đến sự phát triển của các nước bị ảnh hưởng thông qua nhiều kênh khác nhau. Do đó, dẫn đến nguy cơ phá sản các công ty, khiến người lao động không có việc làm, ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính và tăng gánh nặng nợ nần. Dịch bệnh cũng dẫn đến tình trạng thất học và tình trạng sức khỏe tồi tệ hơn. Dịch COVID-19 dự kiến sẽ làm giảm đáng kể mức tăng trưởng sản lượng tiềm năng so với trước đại dịch.
Thứ tư, hợp tác toàn cầu xói mòn hơn nữa sẽ làm giảm khả năng ứng phó của thế giới với các vấn đề xuyên quốc gia ngày càng cấp bách, gồm các cuộc khủng hoảng y tế trong tương lai cũng như biến đổi khí hậu và đói nghèo toàn cầu. Điều này sẽ gây tổn hại đặc biệt cho các quốc gia áp dụng chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu.
II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp nhưng đã xuất hiện những dấu hiệu phục hồi và niềm tin vào sự phát triển của vắc-xin tăng lên, IMF, WB và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra dự báo khả quan về triển vọng kinh tế của một số nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Cụ thể:
1. Hoa Kỳ
Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ dự báo đạt 3,5% trong năm 2021, do nhu cầu yếu trong bối cảnh hạn chế mới và bùng phát dịch COVID-19 trên diện rộng trong những tháng đầu năm. Hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ dự kiến sẽ tăng trong 6 tháng cuối năm 2021 khi dịch COVID-19 được ngăn chặn nhờ phát triển được vắc-xin và nới lỏng biện pháp kiểm soát đại dịch.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng tổng hợp (PMI) trong tháng 2 được điều chỉnh cao hơn, đạt 59,5 điểm, tăng so với ước tính sơ bộ (58,8 điểm), chủ yếu nhờ hoạt động của khu vực tư nhân diễn biến tích cực. Giá trị sản xuất của khu vực dịch vụ tăng cao nhất trong hơn 6 năm qua. Tăng trưởng đơn hàng mới của khu vực tư nhân đạt mức nhanh nhất kể từ tháng 4/2018 trong khi việc làm tăng không đáng kể.
IMF điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ năm 2021 lên thêm 2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10 năm 2020. OECD cũng nhận định nhờ các gói kích cầu tài chính lớn của Hoa Kỳ cùng với tốc độ phát triển vắc-xin nhanh chóng và nhu cầu tăng của các đối tác thương mại lớn nên OECD điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của nước này tăng lên thêm trên 3 điểm phần trăm cho năm 2021, đạt 6,5%.
Theo Conference Board nền kinh tế Hoa Kỳ được kỳ vọng sẽ tăng trưởng trở lại từ Quý II/2021. Tăng trưởng GDP năm 2021 dự báo đạt 5,5%, sau khi giảm 3,5% trong năm 2020 với giả định các ca mắc mới COVID-19 đạt đỉnh trong những tháng đầu năm nay và không dẫn đến tình trạng phong tỏa trên diện rộng. Sản xuất vắc-xin sẽ tăng trong những tháng tiếp theo, dự kiến tiêm chủng mở rộng sẽ thực hiện được trong Quý II và nhân rộng trong Quý III/2021. Gói cứu trợ bổ sung 1,9 nghìn tỷ sẽ được triển khai trong Quý II và Quý III giúp tiêu dùng và thị trường lao động Hoa Kỳ phục hồi nhanh chóng.
Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 6,2% trong năm 2021. Động lực chính cho tăng trưởng là gói kích cầu tài chính lớn hơn dự kiến, trị giá 1,9 nghìn tỷ đô la chiếm hơn 2,5% GDP toàn cầu, vừa mới được chính phủ Hoa Kỳ thông qua.
Đối với tăng trưởng Quý I/2021 của Hoa Kỳ, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ giảm 0,2% trong Quý I/2021 so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng 1% so với quý trước. Trong khi đó, Trading Economics cho rằng GDP Quý I/2021 của Hoa Kỳ tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,5% so với quý trước.
2. Khu vực đồng Euro
Sau khi kinh tế suy thoái mạnh do đại dịch lịch sử gây ra, phục hồi hoạt động kinh tế trong Quý III/2020 của khu vực đồng Euro một lần nữa lại bị gián đoạn do bùng phát làn sóng COVID-19 lần thứ hai. Điều này đã buộc nhiều quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt để hạn chế lây lan dịch bệnh. Một số ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế khu vực, đặc biệt là ngành du lịch vẫn chưa có khả năng phục hồi.
Mặc dù đại dịch diễn biến xấu, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tiếp tục phục hồi nhờ nhu cầu ngoài nước tăng cao. Trong bối cảnh suy thoái lịch sử toàn cầu, các ứng phó chính sách được triển khai một cách sâu rộng và chắc chắn. Các gói hỗ trợ tài chính do Liên minh châu Âu cung cấp thông qua khoản tài trợ cho các quốc gia thành viên bị ảnh hưởng nặng nề dự kiến sẽ hỗ trợ hoạt động và phát huy tác dụng từ năm 2021.
Sau khi giảm mạnh 7,4% trong năm 2020, tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro dự báo sẽ phục hồi, tăng 3,6% trong năm 2021, và đạt 4% vào năm 2022 khi tiêm chủng mở rộng được triển khai rộng rãi, góp phần thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư.
Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 2/2021 của khu vực đồng Euro được điều chỉnh tăng, đạt 48,1 điểm (cao hơn so với con số ước tính sơ bộ 48,0 đưa ra trước đây). Chỉ số PMI bị tác động mạnh do khu vực tư nhân sụt giảm liên tiếp trong 4 tháng. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ vẫn giảm mạnh nhưng ngành chế biến chế tạo đã tăng trở lại, tiệm cận mức cao của 3 năm gần đây. Tổng đơn hàng mới giảm 5 tháng liên tiếp mặc dù xuất khẩu tăng mạnh nhất trong gần 3 năm và việc làm tăng lần đầu tiên trong một năm qua.
Theo Fitch Ratings, khu vực đồng Euro triển khai tiêm chủng vắc-xin chậm hơn Anh và Hoa Kỳ nhưng chương trình sẽ tăng tốc trong Quý II/2021. Khủng hoảng y tế sẽ bớt căng thẳng vào giữa năm nay. Tuy nhiên, khởi động chương trình vắc-xin chậm và những vấn đề về tiêm chủng vẫn là nguy cơ chính của dự báo tăng trưởng chậm cho khu vực này. Tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro dự báo đạt 4,7% trong năm 2021.
Trong ngắn hạn, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2021 của khu vực đồng Euro giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước, giảm 1% so với quý trước.
3. Nhật Bản
Sớm quản lý hiệu quả đại dịch COVID-19, cùng với các gói hỗ trợ tài chính lớn chưa từng có của Chính phủ đã thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế Nhật Bản phục hồi trong Quý III/2020. Tuy nhiên, quá trình phục hồi nhanh chóng bị mất động lực khi làn sóng COVID-19 lần thứ hai bùng phát trở lại làm giảm tiêu dùng. Sau khi tăng trưởng kinh tế ước tính giảm khoảng 5,3% năm 2020, hoạt động kinh tế dự báo sẽ tăng 2,5% trong năm 2021 khi gói kích thích tài chính bổ sung được triển khai và các ca mắc COVID-19 mới ở mức thấp, đại dịch từng bước được kiểm soát và các biện pháp kiềm chế dịch bệnh dần được dở bỏ. Tăng trưởng dự báo đạt 2,3% trong năm 2022.
Chỉ số PMI tổng hợp tháng 02/2021 của Nhật Bản được điều chỉnh tăng, đạt 48,2 điểm, tăng so với ước tính sơ bộ 47,6 điểm. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của nền kinh tế Nhật Bản vẫn tiếp tục đà giảm trong 13 tháng qua do quốc gia này vẫn đang phải đương đầu với làn sóng lây nhiễm COVID-19 mới. Hoạt động chế biến chế tạo ghi nhận sản lượng tăng lần đầu tiên kể từ tháng 12/2018 trong khi hoạt động dịch vụ vẫn tiếp tục giảm. Đơn hàng mới giảm nhưng việc làm tăng lần đầu tiên trong một năm qua. Chỉ số niềm tin người tiêu dùng giảm xuống còn 29,6 trong tháng 01/2021, mức thấp nhất kể từ tháng 8/2020. Chỉ số PMI dịch vụ giảm, từ 46,1 điểm trong tháng 01/2021 xuống 45,8 điểm trong tháng 02/2021, trong khi đó chỉ số PMI chế biến chế tạo đã tăng mạnh từ 49,2 điểm lên 51,3 điểm.
Theo Fitch Ratings, dự báo GDP Quý I/2021 của Nhật Bản giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước và không thay đổi so với quý trước. Trong khi đó, theo các chuyên gia phân tích của Trading Economics, GDP Quý I/2021 của Nhật Bản dự kiến giảm 1% so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng 0,9% so với quý trước.
4. Trung Quốc
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 2% năm 2020, tốc độ tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 1976 nhưng cao hơn các mức dự báo đưa ra trước đó, nhờ kiểm soát đại dịch hiệu quả và kích thích đầu tư công. Phục hồi kinh tế đã vững chắc nhưng không đồng đều, tiêu dùng phục hồi chậm hơn sản xuất công nghiệp. Trong năm 2020, nhập khẩu tăng trưởng chậm lại, xuất khẩu phục hồi, góp phần làm tăng thặng dư tài khoản vãng lai.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc dự báo đạt 7,9% trong năm 2021 do nhu cầu bị dồn nén được bung ra sau đại dịch. Dự báo GDP của quốc gia này tăng 5,2% năm 2022.
Chỉ số PMI tổng hợp của nền kinh tế Trung Quốc trong tháng 02/2021 giảm xuống còn 51,7 điểm (so với 52,2 điểm trong tháng 01/2021). Giá trị sản xuất của ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến chế tạo đều đạt tốc độ khiêm tốn. Tăng trưởng đơn hàng mới ở mức thấp trong 10 tháng qua, trong khi đó việc làm lần đầu tiên giảm kể từ tháng 7/2020. Chi phí đầu vào tiếp tục tăng mạnh.
Fitch Ratings đưa ra những đánh giá khá khả quan về nền kinh tế Trung Quốc. Quốc gia này là nền kinh tế lớn duy nhất đang bắt đầu bình thường hóa các chính sách kinh tế vĩ mô, thâm hụt tài khóa được thu hẹp và tăng trưởng tín dụng chậm lại khi nền kinh tế phục hồi. Fitch Ratings dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2021 đạt 8,4%.
Về dự báo tăng trưởng Quý I/2021, Fitch Ratings cho rằng nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 19,3% so với cùng kỳ năm trước nhưng chỉ tăng 0,2% so với quý trước. Trading Economics thì dự báo khiêm tốn hơn khi cho rằng GDP Quý I/2021 của Trung Quốc tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,6% so với quý trước.
5. Đông Nam Á
Theo OECD , đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng ở châu Á gồm: Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ. Sự phục hồi trong Quý III/2020 đã bị gián đoạn do đại dịch bùng phát trở lại. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng năm 2020 đã được điều chỉnh tăng so với các dự báo được công bố trong tháng 7 và tháng 11/2020.
OECD dự báo tăng trưởng GDP thực tế trung bình của ASEAN năm 2021 đạt 5,1%, sau khi giảm 3,4% vào năm 2020. Tuy nhiên, tăng trưởng sẽ không đồng đều giữa các quốc gia. Việt Nam đã phục hồi nhanh chóng (tăng 2,6% vào năm 2020), nhờ sớm kết thúc giai đoạn đóng cửa vào đầu năm 2020, nhu cầu nước ngoài tăng và các chính sách hỗ trợ có mục tiêu. Tuy vậy, tăng trưởng GDP thực tế năm 2020 giảm mạnh ở Phi-li-pin (-9,0%).
Tại In-đô-nê-xi-a , các biện pháp kiểm soát liên quan đến dịch COVID-19 được thực hiện chậm hơn và được nới lỏng sớm hơn so với các nước bị ảnh hưởng tương tự. Do đó, số lượng các trường hợp nhiễm COVID-19 tăng đột biến trong những tuần gần đây. Tiêu dùng tư nhân bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng vào năm 2020, bảng cân đối kế toán của các doanh nghiệp yếu hơn cũng đã hạn chế đầu tư tư nhân. Giá cả hàng hóa và lĩnh vực du lịch yếu kém có thể làm giảm tăng trưởng hơn nữa. Sau khi tăng trưởng của quốc gia này tăng trưởng âm 2,1% vào năm 2020, GDP thực tế được dự báo sẽ tăng trở lại vào năm 2021, đạt 4,9%.
Đại dịch và việc thực hiện trở lại các hạn chế trong nỗ lực chống dịch COVID-19 ở Ma-lai-xi-a đã dẫn đến tình trạng suy thoái chưa từng có trong hoạt động kinh tế của quốc gia này trong năm 2020, với GDP thực tế dự kiến giảm 5,2%. Dự báo tăng trưởng kinh tế của Ma-lai-xi-a sẽ phục hồi vào năm 2021, đạt 7,0%. Sự tập trung vào nền kinh tế kỹ thuật số và các lĩnh vực tăng trưởng mới cũng như lợi ích từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) sẽ hỗ trợ tăng trưởng của Ma-lai-xi-a trong trung hạn.
Tại Phi-li-pin, đại dịch và các biện pháp hạn chế đã đẩy nền kinh tế vào cuộc suy thoái sâu trong năm 2020. GDP thực tế suy giảm nghiêm trọng nhất trong các nền kinh tế ASEAN vào năm 2020 (-9,0%). Đầu tư công và xuất khẩu ròng được kỳ vọng sẽ hỗ trợ kinh tế của Phi-li-pin phục hồi một phần vào năm 2021 (+ 5,9%), mặc dù chi phí nợ tăng và năng lực của chính phủ trong việc xử lý nợ vẫn là những rủi ro lớn đối với triển vọng tăng trưởng của quốc gia này. Đồng thời, sự không chắc chắn về du lịch quốc tế và sự phục hồi không rõ ràng ở các nền kinh tế lớn sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu dịch vụ và kiều hối từ người lao động ở nước ngoài về nước.
Thái Lan đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch. Phụ thuộc vào du lịch quốc tế khiến nước này bị tổn thương lớn bởi những cú sốc do hạn chế đi lại. Số lượng các ca nhiễm COVID-19 đã tăng đột biến trong vài tháng qua. Đồng baht Thái Lan tăng giá nhanh chóng của trong quý cuối cùng của năm 2020 là một lực cản khác đối với sự phục hồi kinh tế của quốc gia này. Vay nợ hộ gia đình tăng và căng thẳng xã hội leo thang có thể sẽ cản trở tăng trưởng của Thái Lan. Tăng trưởng kinh tế Thái Lan dự báo sẽ phục hồi vào năm 2021, đạt 4,5% sau khi tăng trưởng âm 6,4% trong năm 2020.
Tăng trưởng của nền kinh tế Xin-ga-po giảm mạnh vào năm 2020 do đại dịch (-5,5%). Nhu cầu bên ngoài sụt giảm, đặc biệt là đối với các dịch vụ kinh doanh, do hạn chế đi lại đã bóp nghẹt ngành du lịch. Tăng trưởng của Xin-ga-po dự báo sẽ phục hồi vào năm 2021, đạt 5,0%. Tuy nhiên, Xin-ga-po đạt được tốc độ tăng trưởng này hay không phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu bên ngoài.
Dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2021 của Trading Economics đối với một số nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á gồm In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái Lan và Xin-ga-po lần lượt là 1,9%, -0,7%, -3,5%, -1,5% ,1,5% so với cùng kỳ năm trước và 1%, 0,5%, 3%, 0,5%, 5% so với quý trước.
6. Việt Nam
Ngân hàng Thế giới
Báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 02/2021 của WB nhận định kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi trong tháng 01/2021 với tăng trưởng vững chắc về doanh số bán lẻ và sản xuất công nghiệp, cũng như kết quả tốt từ hoạt động ngoại thương.
Sản xuất công nghiệp trong tháng 01/2021 đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với thời kỳ trước đại dịch. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) giảm nhẹ từ 51,7 điểm vào tháng 12/2020 xuống còn 51,3 điểm vào tháng 01/2021, nhưng vẫn cho thấy tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, chủ yếu do sức cầu bên ngoài hơn là sức cầu trong nước.
Doanh số bán lẻ trong tháng 01/2021 cao hơn 1,5% so với tháng 12/2020, đạt tốc độ tăng trưởng 6,6% (so cùng kỳ năm trước), nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trước đại dịch. Tiếp tục đi theo quỹ đạo trong thời gian gần đây, thương mại hàng hóa đạt tăng trưởng kỷ lục vào tháng 01/2021. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng lần lượt 51,8% và 41,8% (so cùng kỳ năm trước).
Vốn FDI đăng ký đạt khoảng 2,0 tỷ đô la Mỹ trong tháng 01/2021, thấp hơn 3,9% so với tháng trước, và thấp hơn 62,2% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng tín dụng ổn định trở lại sau khi bật tăng mạnh vào cuối năm 2020. Mức tăng này khẳng định quy mô tín dụng dành cho khu vực tư nhân được đẩy nhanh, một phần do tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một phần do nhu cầu của cả doanh nghiệp và hộ gia đình tăng.
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã chống chịu rất tốt với khủng hoảng COVID-19, khảo sát tần suất cao qua điện thoại của Ngân hàng Thế giới vào tháng 01/2021 cho thấy gần một nửa các hộ gia đình cho biết thu nhập của họ vẫn thấp hơn so với năm trước, buộc họ phải vay mượn hoặc cắt giảm kế hoạch tiêu dùng và đầu tư. WB dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,7% trong năm 2021 và giảm nhẹ xuống 6,5% trong năm 2022.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Tháng 3/2021, trang thông tin điện tử của IMF (mục Trọng tâm quốc gia của IMF ) đã đăng báo cáo đánh giá về nền kinh tế Việt Nam, trong đó cho rằng Việt Nam đã chèo lái vượt qua đại dịch thành công. Cụ thể, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được khả năng chống chịu, tăng trưởng 2,9% trong năm 2020 (một trong những mức tăng trưởng cao nhất thế giới) và được dự báo sẽ tăng trưởng 6,5% trong năm 2021, nhờ các yếu tố nền tảng kinh tế vững chắc, các biện pháp kiểm soát dịch quyết liệt, và sự hỗ trợ đúng trọng tâm của Chính phủ.
Đánh giá của IMF chỉ ra rằng, Việt Nam bước vào đại dịch với các nền tảng kinh tế và vùng đệm chính sách vững chắc, mặc dù vẫn còn một số thách thức về cơ cấu cần phải giải quyết. Đầu tư nước ngoài mạnh và thặng dư tài khoản vãng lai đã tăng cường năng lực phục hồi của nền kinh tế. Dù vẫn còn một số điểm yếu, sức khỏe của hệ thống ngân hàng được cải thiện, với khả năng sinh lời, thanh khoản cao hơn và ít nợ xấu hơn so với trước kia. Việt Nam cũng đạt được tiến bộ đáng kể trong việc củng cố tài chính công trước dịch COVID-19. Việc xây dựng các vùng đệm về tài khóa và tài chính trước đại dịch đã giúp Việt Nam đương đầu tốt hơn với cú sốc và vẫn còn nhiều không gian chính sách để Việt Nam thúc đẩy năng suất và cải thiện khả năng phục hồi kinh tế.
Báo cáo của IMF cho rằng các chính sách kinh tế vĩ mô cần được duy trì trong năm 2021 để bảo đảm phục hồi bền vững và toàn diện. Các chính sách trong ngắn hạn cần tập trung vào việc duy trì việc làm và thúc đẩy sự phân bổ lại các nguồn lực. Mạng lưới an sinh xã hội hiện nay cần được mở rộng phạm vi bao phủ và nâng cao hiệu quả.
Sự phục hồi bền vững còn phụ thuộc vào việc bảo vệ ổn định tài chính. Dịch COVID-19 làm suy yếu thanh khoản và khả năng thanh toán của các doanh nghiệp Việt Nam, làm dấy lên những quan ngại về ổn định tài chính qua dư nợ tín dụng ngân hàng. Các chính sách tiền tệ, tài khoá và khu vực tài chính mà Chính phủ triển khai đã giúp giảm thiểu nguy cơ trước mắt về khả năng gia tăng mạnh phá sản doanh nghiệp và sa thải lao động hàng loạt. Việc tiếp tục giám sát chặt chẽ, kết hợp với những nỗ lực kịp thời nhằm xử lý các khoản vay có vấn đề và tăng cường các khuôn khổ quản lý và giám sát sẽ giúp khắc phục các rủi ro của hệ thống tài chính.
Việt Nam cần những cải cách quyết liệt hơn nữa để phát huy tối đa tiềm năng tăng trưởng của mình. Theo đó, ưu tiên hàng đầu là khắc phục tình trạng năng suất thấp còn phổ biến trong nền kinh tế. Cần ưu tiên cải thiện môi trường kinh doanh và đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải thiện khả năng tiếp cận nguồn lực của họ, tăng cường quản trị và tiếp cận công nghệ, đổi mới sáng tạo. Cải cách trong những lĩnh vực này cũng sẽ giúp Việt Nam gặt hái được lợi ích lớn hơn từ việc tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong một thế giới hậu đại dịch.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Các biện pháp ngăn chặn đại dịch ở Việt Nam thành công đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi tương đối nhanh vào năm 2020 (dự báo đạt 2,6%), mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực châu Á mới nổi. Khả năng phục hồi của khu vực công nghiệp đóng góp quyết định vào tăng trưởng, mặc dù các nhà máy lớn ban đầu bị ảnh hưởng bởi sự gián đoạn chuỗi cung ứng. GDP thực tế dự báo sẽ tăng 7,0% vào năm 2021.
Thời báo Nikkei châu Á
Việt Nam có thể dẫn đầu về tăng trưởng trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2021. Trong năm 2020, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế 2,9% nhờ thành công trong việc ngăn chặn vi rút, cùng với xuất khẩu mạnh mẽ hàng điện tử và các sản phẩm tiêu dùng khác. Trong năm 2021, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5%.
Xuất khẩu sẽ tiếp tục được hỗ trợ bởi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng hóa Trung Quốc. Để tránh thuế quan của Hoa Kỳ, các nhà nhập khẩu đã chuyển nhu cầu từ Trung Quốc sang các nhà cung cấp thay thế. Với quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc tiếp tục căng thẳng trong những năm tới, Việt Nam có thể hưởng lợi nhiều hơn.
Dự báo Quý I/2021
Theo Trading Economics, GDP Quý I/2021 của Việt Nam được dự báo tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
Nguồn: Vụ Thống kê nước ngoài và Hợp tác quốc tế - TCTK
Bài viết liên quan
-
Tình hình kinh tế - xã hội TP Hải Phòng tháng 3, 3 tháng năm 2021
29/03/2021 -
(Infographic) - Kết quả một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu quý I/2021
29/03/2021 -
Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 4/2021
29/04/2021 -
(Infographic) - Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 4/2021
29/04/2021 -
TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM QUÝ II VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021
06/07/2021 -
Đến năm 2030, Hải Phòng trở thành thành phố công nghiệp hiện đại, văn minh, bền vững
11/03/2021 -
(Infographic) Tình hình - kinh tế xã hội thành phố Hải Phòng tháng 01/2021
29/01/2021 -
Kịch bản nào cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2021?
16/01/2021 -
Kinh tế Việt Nam 2021: Động lực tăng trưởng là tổng hòa nhiều yếu tố
16/01/2021 -
Tác động của dịch COVID-19 đến tình hình lao động, việc làm quý IV và năm 2020
06/01/2021
Bài viết mới nhất
- Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, 9 tháng năm 2024 thành phố Hải Phòng
- Infographic tình hình Kinh tế - Xã hội tháng 9, 9 tháng đầu năm 2024 thành phố Hải Phòng
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Bão Yagi có thể khiến GDP năm 2024 của Việt Nam giảm 0,15%
- Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình làm Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2025