Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng tháng 10 và 10 tháng năm 2019

Thứ sáu - 25/10/2019 10:51
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số phát triển sản xuất (PTSX) công nghiệp (IIP) tháng 10/2019 ước tăng 7,92% so với tháng trước và tăng 25,34% so với cùng kỳ. Dự tính 10 tháng/2019, IIP đạt mức tăng 24,06% so với cùng kỳ.
 Trong các ngành công nghiệp cấp I, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 25,11%, đóng góp 21,76 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,76%, đóng góp 2,12 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 1,31%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,49%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm mức tăng chung.
Trong 51 nhóm ngành kinh tế cấp 4 có 35 ngành có chỉ số PTSX công nghiệp tăng, trong đó: ngành sản xuất mô tơ, máy phát điện tiếp tục là ngành có mức tăng cao nhất, tăng 250,39%; ngành sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép và ván mỏng khác tăng 71,54%; ngành sản xuất thiết bị truyền thông tăng 70,43%...
Có 16 ngành kinh tế cấp 4 giảm, trong đó: ngành sản xuất đồ chơi giảm 60,76%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 34,71%; sản xuất thuốc, hóa dược giảm 19,97%; sản xuất bia giảm 18,83%...
Tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp có đóng góp quan trọng đối với tăng trưởng toàn ngành công nghiệp thành phố trong tháng 10 và 10 tháng/2019:  
Ba doanh nghiệp thuộc tập đoàn LG Hải Phòng trong 10 tháng/2019 sản xuất hàng triệu sản phẩm công nghệ cao như điện thoại, linh kiện viễn thông, điện tử dân dụng, doanh thu tăng 54,6% so cùng kỳ, thu hút và tạo việc làm cho hơn 18 nghìn lao động. Trong những tháng còn lại của năm 2019, các doanh nghiệp của tập đoàn LG dự kiến với lượng đơn hàng ổn định, sản xuất tăng trưởng tốt là động lực vững chắc để ngành công nghiệp thành phố đạt được kế hoạch tăng trưởng đã đề ra.
Ngành sản xuất thiết bị điện tháng 9/2019 sản lượng sản xuất, tiêu thụ vẫn đạt cao với các sản phẩm chủ yếu như bộ máy phát điện tuabin gió và các linh kiện hệ thống điều khiển điện, tuy nhiên sản xuất sẽ giảm dần vào các tháng tới do yếu tố mùa vụ.
Sản xuất xi măng 10 tháng/2019 duy trì được tốc độ tăng, tăng 1,79% so cùng kỳ. Việc các công trình trong nước lấy nguồn cung từ các doanh nghiệp sản xuất xi măng tại Hải Phòng bắt đầu đi vào hoàn thiện khiến lượng tiêu thụ xi măng tăng lên; các doanh nghiệp đã mở rộng được thị trường xuất khẩu, dự kiến tháng 10 sản lượng xi măng xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh.
Sản xuất sắt thép 10 tháng/2019 trên địa bàn dự kiến tăng 7,53%, tiêu thụ tăng 1,53% so cùng kỳ. Hầu hết các doanh nghiệp thép sản xuất đủ ngày, sản lượng sản xuất và tiêu thụ ổn định.
Sản xuất và phân phối điện 10 tháng/2019 ước tăng 14,76%, tháng 10/2019 là thời điểm kết thúc kế hoạch đại tu, sửa chữa, các tổ máy hoạt động trở lại, lượng điện giao nhận tăng. Đồng thời năm nay lượng mưa ít, thủy điện phát thấp nên nhiệt điện được sản xuất cao hơn.
Ngành đóng tàu 10 tháng/2019 ước tăng 35,87% so với cùng kỳ, một số doanh nghiệp sản xuất tăng do bắt đầu triển khai thực hiện một số hợp đồng lớn đã ký trước đó.
Bên cạnh các ngành sản xuất tăng, ngành công nghiệp thành phố 10 tháng/2019 cũng ghi nhận tình hình sản xuất của một số doanh nghiệp ở những ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn giảm so cùng kỳ năm trước hoặc có tốc độ tăng thấp so với cùng kỳ, cụ thể: 
Sản xuất hàng may mặc 10 tháng/2019 tăng 15,15% so cùng kỳ (10 tháng/2017 tăng 168,38%, 10 tháng/2018 tăng 54,74%), mặc dù vẫn đạt tốc độ tăng trưởng dương nhưng đóng góp trong tăng trưởng chung của ngành may mặc giảm nhiều, các nhà máy đã sản xuất ổn định, không còn mang tính đột biến. 
Sản xuất giầy dép 10 tháng/2019 giảm 5,33% so cùng kỳ do một số doanh nghiệp gia công giầy dép lớn nhận nhiều đơn hàng khó, thời gian hoàn thành lâu hơn; một vài doanh nghiệp do công nghệ máy móc cũ, không đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn cao của các đơn hàng lớn; số còn lại do thiếu đơn hàng, lao động giảm làm ảnh hưởng đến tăng trưởng chung toàn ngành năm 2019.
 Sản xuất phân bón xuất khẩu vẫn gặp nhiều khó khăn do giá bán xuất khẩu có xu hướng giảm nên phải tập trung tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, lượng tiêu thụ trong nước hạn chế do không có lợi thế cạnh tranh, kênh xuất khẩu dự báo đến cuối năm không có nhiều khả quan, giá vẫn tiếp tục giảm do ảnh hưởng của giá dầu thế giới…
Ngoài ra một số ngành cũng có chỉ số sản xuất 10 tháng/2019 giảm so với cùng kỳ như sản xuất bê tông giảm 34,71%; sản xuất bia giảm 18,83%; sản xuất đồ chơi giảm 60,76%; sản xuất thuốc lá giảm 21,03%...
 * Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 10/2019 giảm 3,7% so với tháng trước và giảm 5,64% so với cùng kỳ năm trước, cộng dồn 10 tháng/2019 chỉ số tiêu thụ tăng 1,8% trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao so cùng kỳ: sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản tăng 7,0%; sản xuất đồ điện dân dụng tăng 13,5%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 37,6%, sản xuất môtơ, máy phát tăng 225,2% ...
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất thiết bị truyền thông giảm 60,5%; sản xuất bia giảm 19,1%; sản xuất phân bón giảm 30,1%; sản xuất săm lốp cao su giảm 14,0%;
* Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 31/10/2019 ước tăng 7,9% so với tháng trước và tăng 22,05% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 26,69%; sản xuất phân bón tăng 101,21%; sản xuất xi măng tăng 11,37%; sản xuất trang phục tăng 189%, sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 12,61%, sản xuất kim loại tăng 8,18%;...
Một số ngành có chỉ số tồn kho so với cùng kỳ giảm như: sản xuất săm lốp cao su giảm 42,23%; sản xuất thuốc lá giảm 21,29%; sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện, thiết bị phân phối và điều khiển điện giảm 51,55%; sản xuất thiết bị truyền thông giảm 18,81%...
* Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 31/10/2019 tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 7,4% so với cùng kỳ, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 10,1%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 18,4%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,3%. 
Chia theo ngành cấp I: ngành khai khoáng tăng 15,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,7%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,5%; ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý nước rác thải, nước thải tăng 1,1%. 
Trong 51 ngành cấp 4, một số ngành chỉ số sử dụng lao động tăng cao: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 44,7%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 96,2%, sản xuất trang phục tăng 12,0%; sản xuất thiết bị điện tăng 0,8%; sản xuất thuốc hóa dược tăng 3,2%.
Một số ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm so cùng kỳ như: sản xuất đồ uống giảm 12,1%; sản xuất giày dép giảm 3,17%, sản xuất kim loại giảm 2,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 15,6%.
* Một số sản phẩm công nghiệp ước 10 tháng năm 2019 so cùng kỳ: quần áo các loại đạt 121 triệu cái, tăng 8,77%; phân bón đạt 152 nghìn tấn, giảm 21,28%;  màn hình khác đạt 9.535 nghìn cái, tăng 40,5%; máy giặt đạt 1.244 nghìn cái, tăng 15,9%; lốp ô tô đạt 1.922 nghìn cái, giảm 13,35%; sắt, thép các loại đạt 1.239 nghìn tấn, tăng 10,92%; xi măng Portland đen đạt 3.988 nghìn tấn, tăng 1,79%; điện sản xuất đạt 5.855 triệu Kwh, tăng 15,01%.
2. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
 2.1. Nông nghiệp

* Trồng trọt
- Sản xuất vụ mùa
Vụ mùa năm 2019 tình hình thời tiết tương đối thuận lợi, các cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt: cây lúa có tỷ lệ đẻ nhánh, tỷ lệ hạt chắc cao và ít sâu bệnh, dự báo năng suất lúa vụ mùa 2019 đạt 57,36 tạ/ha, tăng 0,2% so với vụ mùa 2018; cây hàng năm khác hiện đang trong giai đoạn thu hoạch rộ, cho năng suất ổn định.
Tính đến trung tuần tháng 10, tổng diện tích cây hằng năm vụ mùa đã thu hoạch ước đạt 15.462,5 ha (bằng 41% diện tích gieo trồng trong vụ mùa, bằng 38,56% so với vụ mùa năm 2018), trong đó: diện tích lúa đạt 11,5 nghìn ha, bằng 32,79% so vụ mùa năm 2018, diện tích lúa thu hoạch chủ yếu là lúa mùa sớm hoặc được gieo cấy trên những chân ruộng màu trồng cây vụ đông; diện tích rau các loại đạt 3,2 nghìn ha, bằng 81,05% so với vụ mùa năm 2018. 
-  Sản xuất vụ Đông
Tính đến trung tuần tháng 10/2019, diện tích cây vụ đông sớm đã trồng ước đạt 1,6 nghìn ha, bằng 22,15% so với vụ Đông năm 2018, trong đó: cây ngô đạt 50 ha, khoai lang đạt 65 ha, khoai tây đạt 80 ha, ớt cay đạt 120 ha, rau các loại đạt 1.150 ha...
Sản xuất vụ Đông năm nay cơ cấu cây trồng sẽ chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, ưu tiên các loại cây có giá trị kinh tế cao, thị trường dễ tiêu thụ, kết hợp áp dụng các tiến bộ khoa học để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh tế. Hiện nay các đối tượng cây trồng bắt đầu sinh trưởng mạnh, phát triển thân lá. 
* Chăn nuôi
Ước tính tháng 10 năm 2019, chăn nuôi trâu, bò giữ được mức ổn định so với tháng trước: đàn trâu đạt 4,7 nghìn con, giảm 10,25% so cùng kỳ năm trước; đàn bò đạt 11,8 nghìn con, giảm 9,69% so cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định và tiếp tục xu hướng tăng mạnh, tổng đàn gia cầm ước đạt 8.667,6 nghìn con, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà đạt 6.844,3 nghìn con, tăng 7,88% so với cùng kỳ. 
Đàn lợn hiện có trên địa bàn thành phố ước đạt 94,5 nghìn con, tăng 3,83% so với tháng trước, giảm 77,62% so cùng kỳ năm trước. Hiện nay nhiều địa phương chưa hết dịch, chưa có hướng dẫn tái đàn, song trên thực tế một số hộ vẫn chủ động tái đàn (đặc biệt là đối với các hộ có nghề phụ như nấu rượu, làm đậu... với nguồn thức ăn có sẵn) tuy nhiên mức tái đàn chỉ cầm chừng dưới quy mô bình thường của hộ. Dự báo trong thời gian tới đàn lợn có thể được duy trì ổn định và tăng nhẹ do quí IV là giai đoạn vào đàn để chuẩn bị xuất chuồng phục vụ tết âm lịch, hơn nữa giá thành lợn hơi hiện đang duy trì ở mức khá cao và tăng từng ngày.
Giá thức ăn chăn nuôi trong tháng ổn định, do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên nguồn cung lợn giống khan hiếm, giá lợn giống (lợn mẹ Móng Cái) thời điểm này đạt ngưỡng 1,5 triệu/con. Giá lợn hơi xuất chuồng có xu hướng tăng mạnh do khan hiếm nguồn cung, gà hơi lông màu hiện vẫn giữ mức ổn định; gà hơi công nghiệp giảm mạnh so với bình quân chung năm 2018, thời điểm hiện tại giá gà hơi công nghiệp chưa có dấu hiệu hồi phục, do lượng cung dồi dào từ các trang trại, gia trại trong khi thị trường tiêu thụ chậm, ngoài ra thị trường còn chịu sức ép từ nguồn thịt gà nhập khẩu giá rẻ từ một số nhà cung cấp. 
* Tình hình dịch bệnh: 
Sau gần 8 tháng kể từ ngày phát sinh dịch tả lợn Châu Phi, hiện tại dịch có chiều hướng lắng xuống, tuy trong tháng 9, 10 vẫn xảy ra cục bộ tại một số địa phương. Tính đến thời điểm hiện tại có 155 xã, phường đã qua 30 ngày không phát sinh dịch bệnh; có 39 xã phường dịch tái phát trở lại sau 30 ngày. Tính đến 17h ngày 24/10/2019, dịch xảy ra tại 19.082 hộ thuộc 13 huyện, quận: Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Dương, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy, An Lão, Cát Hải, Dương Kinh, Hải An, Kiến An, Đồ Sơn, Hồng Bàng và Lê Chân. Số lợn tiêu hủy 182.328 con (gồm 31.592 con lợn nái, 426 con lợn đực giống, 97.022 con lợn thịt, 53.288 con lợn con), chiếm 52,99% tổng đàn trước dịch; trọng lượng ước tính 9,68 nghìn tấn. 
 2.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố hiện nay vẫn duy trì ở mức ổn định, ước tính tháng 10 năm 2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 99,8 m3, bằng 78,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 3.918 ste, bằng 93,1% so với cùng kỳ năm trước (sản lượng gỗ, củi được khai thác và thu nhặt chủ yếu từ cây lâm nghiệp trồng phân tán nên không tập trung và không đồng đều giữa các tháng trong năm) Ước 10 tháng/2019, sản lượng gỗ khai thác đạt 1.401,3 m3, bằng 81,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 39.378 ste, bằng 94%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 200 nghìn cây, bằng 96,2%. Diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 56,77 ha. 
Công tác bảo vệ, phòng cháy chữa cháy rừng luôn được các cấp, các ngành quan tâm nên trong tháng mặc dù thời tiết chuyển khô, hanh nhưng trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra. Tính đến hết 15/10 toàn thành xảy ra 04 vụ cháy rừng với diện tích 2,18 ha chủ yếu là cháy thảm thực bì nên không làm ảnh hưởng đến diện tích rừng hiện có. 
 2.3. Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 10 năm 2019 ước đạt 13.459,7 tấn, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 10 tháng năm 2019, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản đạt 140.964,1 tấn, tăng 6,66% so với cùng kỳ năm trước.
* Nuôi trồng 
Diện tích nuôi trồng thủy sản 10 tháng/2019 ước đạt 14.191,4 ha, tăng 1,14% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 9.178,6 ha, tăng 1,33%, tôm các loại đạt 3.363 ha, giảm 2,1%; thủy sản khác đạt 1.649,8 ha, tăng 7,24%. 
Sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch tháng 10/2019 ước đạt 4.889,5 tấn, tăng 5,97% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 3.479,7 tấn, tăng 2,04%; tôm các loại đạt 354,8 tấn, tăng 6,29%; thủy sản khác đạt 1.055 tấn, tăng 21,22%. Tính chung 10 tháng/2019 sản lượng thủy sản nuôi trồng khai thác ước đạt 57.021,5 tấn, tăng 8,12% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 36.605,7 tấn, tăng 3,32%; tôm các loại đạt 4.257,5 tấn, giảm 3,12%; thủy sản khác đạt 16.158,3 tấn, tăng 25,11%.
Ngay trung tuần tháng 10, không khí lạnh từ phía Bắc đã hoạt động mạnh dần tác động đến khu vực miền Bắc nước ta và gây mưa giông trên diện rộng ít nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe của đàn thủy sản nuôi.
Khu vực nuôi nước ngọt tiếp tục thu hoạch sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng; chủ động các biện pháp phòng chống dịch bệnh trong giai đoạn giao mùa, tích cực chăm sóc đàn cá nuôi thương phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng vào dịp Tết của người dân. Khu vực nuôi nước lợ, diện tích nuôi thâm canh đối tượng nuôi tôm he chân trắng vụ một đã cơ bản thu hoạch xong. Một số cơ sở đã thả nuôi tôm thẻ chân trắng vụ đông được 15 - 30 ngày tuổi, tôm sinh trưởng, phát triển bình thường. Các đầm nuôi tôm sú, cua biển, cá bớp, quảng canh cải tiến tiếp tục thu tỉa xuất bán và thả bù con giống để thu hoạch sản phẩm dịp cuối năm. Khu vực nuôi cá lồng bè, đã qua mùa du lịch song vẫn thu hoạch xuất bán sản phẩm tươi sống phục vụ nhu cầu tiêu dùng trên thị trường Hải Phòng, Hà Nội và các tỉnh thành lân cận. 
Các trại sản xuất giống thủy sản nước ngọt tập trung nuôi vỗ đàn cá bố mẹ chuẩn bị cho vụ sản xuất ; các trại giống nước mặn lợ tiếp tục cho sinh sản cua biển, tôm sú, tôm rảo,… phục vụ nhu cầu thả bù của các đầm nuôi trồng thủy sản mặn lợ, sản lượng con giống các loại sản xuất 10 tháng/2019 ước đạt 1.818,3 triệu con, tăng 6,1% so cùng kỳ 2018.
* Khai thác 
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 10/2019 ước đạt 8.570,2 tấn, tăng 9,52% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại 4.872 tấn, tăng 11,96%; tôm các loại đạt 919 tấn, tăng 4,66%; thủy sản khác đạt 2.779,2 tấn, tăng 7,06%. Ước tính 10 tháng/2019 sản lượng thủy sản khai thác đạt 83.942,6 tấn, tăng 5,69% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: cá các loại đạt 47.196,5 tấn, tăng 6,97%; tôm các loại đạt 7.608,2 tấn, tăng 2,9%; thủy sản khác đạt 29.137,9 tấn, tăng 4,39%.
Thị trường tiêu thụ và giá hải sản hiện ổn định, giá nhiên liệu cho hoạt động khai thác tuy có tăng nhưng mức tăng không cao nên lợi nhuận sau mỗi chuyến đi biển vẫn được duy trì, điều đó đã tạo động lực cho ngư dân bám biển sản xuất. Trong thời gian tới, hoạt động sản xuất trên biển tiếp tục gặp một số khó khăn nhất định do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới gió Tây Nam và gió mùa đông bắc nên thời tiết trên biển sẽ diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động khai thác thủy hải sản, đặc biệt vào những tháng cuối vụ cá Nam, nguồn lợi chỉ tập trung ở 02 khu vực Tây Bắc và Tây Nam Bạch Long Vỹ với một loài thường gặp là cá nục, cá bạc má hoặc cá hồng. Tuy nhiên dự báo ngành khai thác biển năm 2019 của thành phố vẫn có mức tăng trưởng khá so năm 2018.
 3. Đầu tư xây dựng
Dự tính vốn đầu tư thực hiện tháng 10/2019 là 1.104,1 tỷ đồng, tăng 1,94% so cùng kỳ. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước 851 tỷ đồng, giảm so với cùng kỳ 0,36%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước 202,1 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 8,17%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước 51 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 20,94%;
Dự tính vốn đầu tư thực hiện 10 tháng/2019 là 7.888,2 tỷ đồng, tăng 1,12% so cùng kỳ. Chia ra:
 - Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước 6.430,2 tỷ đồng, giảm so với cùng kỳ 6,44%;
- Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước 1.136 tỷ đồng, tăng so cùng kỳ 59,7%;
    - Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước 322 tỷ đồng, tăng so với cùng kỳ 48,57%;
Trong 9 tháng đầu năm công tác giải ngân vốn đầu tư công đạt tỷ lệ rất thấp (50,6%) và thấp hơn bình quân chung cả nước. Thời gian qua do việc sắp xếp và tổ chức lại các Ban quản lý dự án kéo dài cũng phần nào ảnh hưởng tới việc giải ngân vốn ngân sách và ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ thực hiện của các dự án. Trong đó có những dự án giá trị thực hiện trong năm 2019 được bố trí nghìn tỷ đồng nhưng việc giải ngân chậm trễ làm cho công tác giải phóng mặt bằng bị chậm, phía nhà thầu không có mặt bằng để thi công. 
Dự kiến tháng 10/2019 nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố bị giảm đi so với tháng 9 do một số dự án lớn đã hoàn thành; nguồn vốn cân đối ngân sách tăng 10,08% so với cùng kỳ; nguồn vốn trung ương hỗ trợ có mục tiêu và nguồn vốn ODA vẫn giảm so với cùng kỳ. Phần lớn vốn trung ương hỗ trợ có mục tiêu năm 2019 bố trí cho các dự án đã quyết toán nên khối lượng thực hiện từ những nguồn vốn này không cao và giảm đi so với cùng kỳ.
Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện trong tháng 9 và ước tháng 10/2019 tăng đều so với cùng kỳ. Một loạt các tuyến đường liên thôn, liên phường, các công trình giáo dục, trụ sở xã, phường được nâng cấp, xây dựng ở các quận huyện trong chương trình nông thôn mới.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/10/2019 Hải Phòng có 680 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư        :  17.589,36 triệu USD
Vốn điều lệ                :    6.206,14  triệu USD
Vốn Việt Nam góp    :           242,71  triệu USD
Nước ngoài góp         :    5.963,43  triệu USD
Tính từ đầu năm đến 15/10/2019 toàn thành phố có 71 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư 494,95 triệu USD và 38 dự án điều chỉnh tăng vốn với số vốn tăng là 623,44 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. 
Từ nửa cuối tháng 9 đến 15/10/2019 có 6 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 33,77 triệu USD. Điều chỉnh tăng vốn có 4 dự án với số vốn tăng là 422,1 triệu USD. Đối với dự án cấp mới, đáng kể nhất là dự án sản xuất tấm phủ sàn nhựa Jinka Việt Nam với số vốn đăng ký mới là 19,96 triệu USD và điều chỉnh tăng vốn là dự án Công ty TNHH LG Display Việt Nam Hải Phòng với số vốn điều chỉnh tăng lên tới 410 triệu USD.
Có 13 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động trong đó 5 dự án do hết thời hạn dự án, 1 dự án thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư do vi phạm pháp luật về đầu tư, 7 dự án nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động dự án trước thời hạn.
4. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10 năm 2019 ước đạt 11.491,8 tỷ đồng, tăng 0,06% so với tháng trước và tăng 14,08% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 10 tháng/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 108.800,6 tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. 
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 10 năm 2019 ước đạt 8.939,5 tỷ đồng, tăng 1,42% so với tháng trước, tăng 15,68% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 10 tháng/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 84.783,6 tỷ đồng, tăng 14,98% so với cùng kỳ năm trước;
Các ngành hàng có ước tính doanh thu tháng 10/2019 tăng so với tháng trước là ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 0,24%; ngành đồ dùng trang thiết bị gia đình tăng 1,36%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 7,74%; phương tiện đi lại tăng 1,36%, xăng dầu các loại tăng 1,48%.... Trong tháng có ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, các siêu thị, cửa hàng bán lẻ đều có nhiều chương trình khuyến mại để kích cầu thị trường. Bên cạnh đó nhu cầu xây dựng tăng cao nên sức mua của thị trường vật liệu xây dựng dự tính tăng đáng kể.
Tính chung 10 tháng/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 14,98% so với cùng kỳ năm 2018. Các nhóm ngành hàng có doanh thu tăng khá cao so với cùng kỳ là nhóm ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 12,17%; hàng may mặc tăng 14,28%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 18,55%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 21,97%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 9,4%; phương tiện đi lại tăng 15,32%; xăng dầu tăng 25,64%; nhiên liệu khác tăng 12,2%; ...
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 10 năm 2019 ước đạt 165,47 tỷ đồng, giảm 12,83% so với tháng trước và tăng 23,74% so với cùng kỳ năm trước; 10 tháng/2019 ước đạt 1.578,84 tỷ đồng, tăng 18,49% so với cùng kỳ năm trước. 
- Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 10 năm 2019 ước đạt 1.550,5 tỷ đồng, giảm 6,5% so với tháng trước và tăng 6,02% so với cùng kỳ năm trước; 10 tháng/2019 ước đạt 15.100 tỷ đồng, tăng 14,67% so với cùng kỳ năm trước. 
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 10 năm 2019 ước đạt 17,9 tỷ đồng, giảm 14,07% so với tháng trước, tăng 12,28% so với cùng kỳ năm trước; 10 tháng/2019 ước đạt 180,9 tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 10 năm 2019 ước đạt 818,44 tỷ đồng, tăng 2,09% so với tháng trước, tăng 11,55% so với cùng kỳ năm trước; 10 tháng/2019 ước đạt 7.157,27 tỷ đồng, tăng 10,87% so với cùng kỳ năm trước;
Tháng 10/2019, một số hoạt động dịch vụ có xu hướng tăng hơn so với tháng trước như: dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 1,2%, dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 2,38%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 4,13%; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 1,17%; dịch vụ phục vụ cá nhân khác 10,22%... Hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân khác tăng cao do gần đến thời điểm cuối năm nhu cầu làm đẹp, uốn tóc của chị em phụ nữ tăng.
5. Hoạt động lưu trú và lữ hành    
Tổng lượt khách tháng 10/2019 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 802 nghìn lượt, giảm 15,07% so với tháng trước và tăng 20,62% so với cùng tháng năm 2018; trong đó khách quốc tế đạt 90 nghìn lượt, giảm 4,92% so với tháng trước.
Cộng dồn 10 tháng đầu năm 2019, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 7.657,8 ngàn lượt, tăng 16,12% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó khách quốc tế đạt 837,2 nghìn lượt, tăng 17,32% so với cùng kỳ năm trước.
Vì thời tiết chuyển mùa, hết mùa du lịch biển nên lượng khách lưu trú trên địa bàn thành phố giảm so với các tháng trước.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành tháng 10 năm 2019 đạt 10,4 ngàn lượt, giảm 10,47% so với tháng trước. Cộng dồn 10 tháng đầu năm 2019, lượt khách du lịch 98,7 ngàn lượt, tăng 7,37%. 
6. Vận tải hàng hóa và hành khách
6.1. Vận tải hàng hoá

Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 10 năm 2019 ước đạt 17,9 triệu tấn, tăng 2,29% so với tháng trước và tăng 14,58% so với cùng tháng năm trước; ước tính 10 tháng/2019 đạt 166,8 triệu tấn, tăng 14,39% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 10 năm 2019 ước đạt 8.411,7 triệu tấn.km, tăng 1,37% so với tháng trước và tăng 2,27% so với cùng tháng năm trước; ước tính 10 tháng/2019 đạt 80.3838,8 triệu tấn, tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 10/2019 tăng so với tháng trước do các doanh nghiệp vận tải tiếp tục nhận được nhiều đơn hàng hơn. Tuy nhiên, khối lượng hàng hóa luân chuyển lại giảm so với tháng trước do khối doanh nghiệp vận tải biển nhà nước nhận được những đơn hàng có quãng đường vận chuyển ngắn hơn tháng trước.
6.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 10 năm 2019 ước đạt 5,8 triệu lượt, giảm 1,42% so với tháng trước, tăng 13,56% so với cùng tháng năm trước; ước tính 10 tháng/2019 đạt 57,8 triệu lượt, tăng 14,53% so với cùng kỳ năm trước. 
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 10 năm 2019 đạt 235,8 triệu Hk.km, giảm 0,88% so với tháng trước và tăng 13,28% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 10tháng/2019 đạt 2.315,8 triệu lượt, tăng 12,43% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển tháng 10/2019 giảm so với tháng trước, chủ yếu bởi lượng hành khách ven biển do hết mùa du lịch biển ở Hải Phòng nên lượng khách đi lại bằng tàu thủy giảm mạnh.
6.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Dịch vụ kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 10/2019 ước đạt 2.598,5 tỷ đồng, tăng 1,12% so với tháng trước và tăng 14,65% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 10 tháng/2019 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 24.984,5 tỷ đồng, tăng 16,22% so với cùng kỳ năm trước.
6.4. Sân bay Cát Bi
Tháng 10 năm 2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 26 tỷ đồng, tăng 0,34% so với tháng trước; tăng 18,60% so với cùng tháng năm 2018; 10 tháng/2019 tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 250,7 tỷ đồng, tăng 23,27% so với cùng kỳ năm trước. 
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 10 năm 2019 ước đạt 1.500 chuyến, tăng 1,63% so với tháng 9/2019, tăng 32,51% so với cùng tháng năm 2018; 10 tháng/2019 số lần máy bay hạ, cất cánh đạt 13.994 chuyến, tăng 17,14% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: chuyến bay ngoài nước tháng 10/2019 ước đạt 150 chuyến, ước tính trên 15 nghìn lượt hành khách thông qua. 
Tổng số hành khách tháng 10 năm 2019 ước đạt 235,5 nghìn lượt người, tăng 9,25% so với tháng 9/2019, tăng 23,44% so với cùng tháng năm 2018; 10 tháng/2019 tổng số hành khách ước đạt 2.203 nghìn lượt, tăng 11,17% so với cùng kỳ năm trước. 
Tổng số hàng hóa tháng 10 năm 2019 ước đạt 1,79 nghìn tấn, tăng 0,62% so với tháng 9/2019, tăng 5,29% so với cùng tháng năm 2018; 10 tháng/2019 tổng số hàng hóa thông qua đạt 16,47 nghìn tấn, tăng 21,14% so với cùng kỳ năm trước. Hàng hóa đến và đi hiện nay đa dạng nhiều chủng loại như hải sản, hàng thực phẩm, bánh kẹo, quần áo và hàng tiêu dùng khác.
7. Hàng hoá thông qua cảng 
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 10 năm 2019 ước đạt 11.202 nghìn TTQ, tăng 1,05% so với tháng trước và tăng 21,12% so với cùng kỳ năm trước. 
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 3.420 nghìn TTQ, tăng 6,22% so với tháng trước, tăng 8,89% so với cùng kỳ, trong đó: 
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước Trung ương ước đạt 3.411 nghìn TTQ, tăng 6,24% so với tháng trước, tăng 8,85% so với cùng kỳ.
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương ước đạt 9 nghìn TTQ, giảm 0,53% so với tháng trước, tăng 26,39% so với cùng kỳ. 
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 7.782 nghìn TTQ, giảm 1,07% so với tháng trước và tăng 27,41% so với cùng kỳ năm 2018.
Cộng dồn 10 tháng/2019, sản lượng hàng hóa thông qua cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 101.581 nghìn TTQ, tăng 15,47% so với cùng kỳ năm 2018.
* Doanh thu cảng biển tháng 10 năm 2019 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 454 tỷ đồng, giảm 6,53% so với cùng kỳ. Cộng dồn 10 tháng/2019, doanh thu khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 4.532 tỷ đồng, tăng 6,45% so với cùng kỳ năm trước. 
8. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) thành phố Hải Phòng tháng 10 năm 2019 tăng 0,77% so với tháng trước, tăng 2,25% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,89% so với tháng 12/2018. CPI bình quân 10 tháng đầu năm 2019 tăng 2,27% so với cùng kỳ năm trước.
 Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 8 nhóm có chỉ số giá tháng 10/2019 tăng với mức tăng như sau: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,58%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,08%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,54%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,30%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,28%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%; nhóm giao thông tăng 1,03%; và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,35%. 02 nhóm có chỉ số giá không đổi là nhóm giáo dục và nhóm bưu chính viễn thông. Có 01 nhóm có chỉ số giá giảm là nhóm văn hóa, giải trí và du lịch, giảm 0,13%. 
Chỉ số giá thực phẩm tăng 2,55% so với tháng trước chủ yếu do giá thịt lợn tăng 13,74% do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi nên nguồn cung khan hiếm. Chỉ số nhóm giao thông tăng 1,03% so với tháng trước do xăng dầu được điều chỉnh giảm 2,23%. Giá xăng dầu được điều chỉnh 02 lần trong tháng, cụ thể điều chỉnh tăng giá vào ngày 01/10 và điều chỉnh giảm giá vào ngày 16/10 với tổng mức tăng giá cụ thể là xăng RON95-IV tăng 650 đồng/lít, xăng E5-RON 92 tăng 360 đồng/lít; dầu diesel 0,05S-II tăng 20 đồng/lít. 
* Chỉ số giá vàng 99,99% và Đô la Mỹ: 
- Chỉ số giá vàng tháng 10/2019 giảm 0,45% so với tháng trước, tăng 20,42% so với cùng tháng năm 2018, tăng 18,79% so với tháng 12 năm trước. Giá vàng bình quân tháng 10/2019 dao động ở mức 4,216 triệu đồng/chỉ, giảm 19.000 đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 10/2019 giảm 0,01% so với tháng trước, giảm 0,54% so với cùng tháng năm 2018, giảm 0,42% so với tháng 12 năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 10/2019 dao động ở mức 23.570 đồng/USD, giảm 3 đồng/USD.
9. Hoạt động tài chính, ngân hàng 
9.1. Tài chính

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 10 năm 2019 ước đạt 7.711,4 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa đạt 2.590,9 tỷ đồng; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 5.000 tỷ đồng. Ước 10 tháng/2019 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 72.115,9 tỷ đồng, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu  nội địa đạt 20.679,1 tỷ đồng, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 50.044 tỷ đồng, tăng 35,9% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 10 tháng/2019, trong số thu nội địa: thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 2.324,5 tỷ đồng, giảm 5,6% so cùng kỳ năm trước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3.920,3 tỷ đồng, tăng 29,9% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 3.945,6 tỷ đồng, tăng 14,6% so cùng kỳ năm trước... 
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 10 năm 2019 ước đạt 2.503,9 tỷ đồng; ước 10 tháng/2019 đạt 15.854,6 tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: chi đầu tư phát triển trong chi cân đối ngân sách địa phương đạt 6.612 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước, chi thường xuyên đạt 7.826,7 tỷ đồng, tăng 5,6% so cùng kỳ năm trước.
9.2. Ngân hàng
* Công tác huy động vốn:
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến hết tháng 10 năm 2019 đạt 204.146 tỷ đồng, tăng 12,41% so với cùng kỳ năm trước, tăng 10,78% so với cuối năm 2018.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 191.373 tỷ đồng, tăng 12,13% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 93,74%; ngoại tệ ước đạt 12.773 tỷ đồng, tăng 16,77% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 6,26%. 
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 141.526 tỷ đồng, tăng 10,78% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 69,33%; tiền gửi thanh toán ước đạt 58.680 tỷ đồng, tăng 17,34% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 28,74%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 3.940 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,93%.
* Công tác tín dụng:
Tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế ước thực hiện đến hết tháng 10 năm 2019 đạt 125.821 tỷ đồng, tăng 13,46% so với cùng kỳ năm trước, tăng 11,81% so với năm 2018.
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND đạt 117.655 tỷ đồng, tăng 12,4%  so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 93,51%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 8.166 tỷ đồng, tăng 31,28% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 6,49%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 54.342 tỷ đồng, tăng 10,75% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 43,19%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 71.479 tỷ đồng, tăng 15,61% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 56,81%. 
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội

* Công tác Lao động, việc làm
Tháng 10 năm 2019, thành phố đã tổ chức 04 phiên giao dịch việc làm, với sự tham gia tuyển dụng của 120 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 11.435 lượt lao động; ước cấp mới 210 giấy phép lao động, cấp lại 283 giấy phép lao động, miễn cấp 54 giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể được 25 doanh nghiệp; hướng dẫn, thẩm định và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 20 doanh nghiệp. 
Ngoài ra, thành phố tiến hành giải quyết được 15 thủ tục hành chính về khai báo sử dụng thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về lao động. Tiếp tục điều tra cung cầu lao động năm 2019, kiểm tra công tác an toàn vệ sinh lao động, kiểm tra quản lý và sử dụng lao động là người nước ngoài làm việc tại Hải Phòng, triển khai Kế hoạch sử dụng vốn chương trình mục tiêu về việc làm, Kế hoạch giám sát cho vay Quỹ quốc gia giải quyết việc làm năm 2019.
Tính chung 10 tháng đầu năm 2019, sàn giao dịch việc làm thành phố tổ chức được 36 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng của 1.119 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 62.916 lượt lao động. Cung lao động tại Sàn đạt 73.755 lượt người, gấp trên 1,17 lần nhu cầu tuyển dụng. Số lượng đăng ký bảo hiểm thất nghiệp trong 10 tháng đầu năm 2019 là 17.058 người (giảm 25,67% so với cùng kỳ), thành phố đã giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho 14.933 người (tăng 5,35% so với cùng kỳ), với kinh phí hơn 223 tỷ đồng (tăng 14% so với cùng kỳ); hướng dẫn, tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể được 123 doanh nghiệp (bằng 112% so với cùng kỳ); hướng dẫn, thẩm định và ra thông báo thực hiện nội quy lao động cho 105 doanh nghiệp (bằng 113% so với cùng kỳ). 
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 06 cuộc đình công với 3.674 người tham gia (tăng 01 cuộc và giảm 203 lao động so với cùng kỳ); xảy ra 11 vụ tai nạn lao động làm chết 11 người (tương đương so với cùng kỳ).
* Công tác dạy nghề 
Tháng 10 năm 2019, triển khai thực hiện Kế hoạch số 239/KH-UBND ngày 24/9/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc tổ chức Kỳ thi tay nghề thành phố năm 2019 và tham gia Kỳ thi tay nghề quốc gia lần thứ 11 năm 2020; thẩm định 16 chương trình đào tạo các trình độ cho 01 trường cao đẳng, 01 trường trung cấp và 01 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên.
Trong 10 tháng đầu năm 2019, thành phố đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát hoạt động giáo dục nghề nghiệp, các dự án, chương trình giáo dục nghề nghiệp năm 2019. Công tác tuyển sinh đào tạo nghề nghiệp trên toàn thành phố ước đạt 45.200 lượt học sinh, sinh viên, (đạt 89% kế hoạch năm và bằng 103%  so với cùng kỳ năm 2018); trong đó trình độ cao đẳng là 3.600, trung cấp là 4.700 học sinh, sinh viên; sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng là 36.900 học viên. 
* Công tác người có công
Tính đến tháng 10 năm 2019, thành phố đã tiếp nhận và tiến hành giải quyết theo đúng chế độ cho các đối tượng chính sách trên địa bàn như sau: Quyết định trợ cấp 1 lần và trợ cấp mai táng phí cho 2.177 trường hợp; trợ cấp hàng tháng 79 người; xác nhận miễn giảm tiền sử dụng đất theo Quyết định 118/QĐ-TTg: 55 trường hợp; tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 387 trường hợp; tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 18.914 trường hợp; công nhận, đề nghị công nhận 407 người có công.
Bên cạnh đó, thành phố đã tiến hành thẩm định, xác nhận hộ gia đình người có công trong việc đề nghị hỗ trợ vật liệu xây mới, sửa chữa nhà ở theo Nghị quyết số 32/2013/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố, tính đến nay đã thực hiện thẩm định đối với 3.174 trường hợp.  
* Công tác giảm nghèo - Bảo trợ xã hội
Tháng 10/2019, tiếp nhận 15 đối tượng vào các Trung tâm bảo trợ xã hội, tập trung được 35 lượt người lang thang trên địa bàn thành phố. Tiến hành điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố năm 2019, tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở đối với hộ nghèo giai đoạn 2020-2025.   
Trong 10 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tập trung được 512 lượt người người lang thang trên địa bàn (giảm 149 lượt người, tương ứng giảm 22,5% so với cùng kỳ). Bên cạnh đó, thành phố đã thực hiện chi trả trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng và các chế độ hỗ trợ kinh phí đối với 74.825 người (tăng 2.671 đối tượng, tương ứng tăng 3,7% so với cùng kỳ) đảm bảo kịp thời và đúng chính sách. 
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Tính chung 10 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tổ chức quản lý, cai nghiện ma túy tập trung tại các cơ sở cai nghiện cho 2.738 lượt người (bằng 102,54% so với cùng kỳ, bằng 101,40% so với kế hoạch năm), cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 293 người (bằng 84,76% so với cùng kỳ, bằng 108% so với kế hoạch năm). 
Phối hợp với công an các quận, huyện tiến hành 43 đợt xét nghiệm tìm chất ma túy cho 222 đối tượng nghi sử dụng trái phép chất ma túy, kết quả có 64 trường hợp dương tính với ma túy; tăng cường chỉ đạo các đoàn kiểm tra liên ngành, kết quả đã tiến hành kiểm tra 309 buổi tại 1.157 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn...
2. Giáo dục - Đào tạo
Trong 10 tháng đầu năm 2019, các đơn vị thuộc ngành Giáo dục trên địa bàn thành phố tiếp tục triển khai Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày 27/4/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc kiểm tra thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Tích cực tổ chức thanh tra, kiểm tra nền nếp, chuyên môn, kế hoạch năm học của các đơn vị giáo dục trên địa bàn thành phố. Tiếp tục triển khai các quy trình, thủ tục mua sắm sách thiết bị dạy học cho các trường học. Xây dựng dự thảo phương án tổ chức kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2020 - 2021.  
Trong thời gian tới, các trường học, đơn vị tập trung tổ chức phong trào dạy tốt, học tốt, thi đua lập thành tích chào mừng 36 năm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/1982 - 20/11/2019; Kỷ niệm 63 năm ngày truyền thống ngành Giáo dục và Đào tạo thành phố Hải Phòng.
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm 
* Công tác y tế dự phòng
Trong 10 tháng đầu năm 2019, thành phố đã tích cực giám sát chủ động bệnh truyền nhiễm tại các cơ sở y tế, đặc biệt chú trọng kiểm tra công tác phòng, chống dịch sốt xuất huyết tại Ngô Quyền, An Lão, Hải An, An Dương, Thủy Nguyên, Kiến An. Diễn biến một số bệnh truyền nhiễm trên địa bàn thành phố như sau: Bệnh sốt xuất huyết ghi nhận 839 ca; bệnh tay chân miệng ghi nhận 1.019 ca; cúm ghi nhận 4.544 ca... và không phát sinh các dịch bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm.
Bên cạnh đó, tiếp tục chỉ đạo, tổ chức khám sàng lọc, thực hiện tiêm phòng vắc xin đảm bảo đầy đủ, hiệu quả. Kết quả triển khai tiêm chủng mở rộng như sau: Tiêm chủng đầy đủ 08 loại vắc xin cho trẻ em dưới 1 tuổi: 21.153 trẻ, đạt 68,4%; tiêm nhắc lại vắc xin sởi mũi 2 cho trẻ 18 tháng tuổi: 22.816 trẻ, đạt 69,95%; tiêm chủng vắc xin viêm não Nhật Bản cho trẻ 1-2 tuổi: 21.925 trẻ, đạt 66,87%.
Công tác khám chữa bệnh được chú trọng, thực hiện khám chữa bệnh thông thường gắn với phát triển kỹ thuật y tế cao, chuyên sâu tại các bệnh viện tuyến thành phố, kiểm soát nhiễm khuẩn, kiểm soát kê đơn sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. 
* Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Tập trung đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 12/7/2018 của Hội đồng nhân dân thành phố về "Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác đảm bảo an toàn thực phẩm giai đoạn 2018-2020, định hướng 2030".
Các Đoàn kiểm tra liên ngành về an toàn thực phẩm của thành phố tích cực tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định trong đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống trên địa bàn. Tính đến nay đã thành lập 06 đoàn kiểm tra liên ngành, 18 đoàn kiểm tra chuyên ngành của thành phố; số đoàn thanh tra tuyến quận, huyện là 32 đoàn kiểm tra liên ngành, 04 đoàn kiểm tra chuyên ngành; số đoàn kiểm tra tuyến xã là 446 đoàn kiểm tra liên ngành. Nhìn chung, công tác an toàn thực phẩm được bảo đảm, không để xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng nào trên địa bàn.
* Công tác phòng chống HIV/AIDS
Tính đến tháng 10/2019, lũy tích người nhiễm HIV là 12.462 người, số người chuyển sang AIDS là 6.307 người, số người chết do AIDS là 4.572 người, và số người nhiễm HIV hiện còn sống là 7.890 người. So với cùng kỳ năm 2018, số người nhiễm HIV giảm 21 trường hợp và số người chuyển sang AIDS giảm 06 trường hợp.
Cũng tính đến tháng 10/2019, trên địa bàn toàn thành phố có tổng số cơ sở điều trị Methadone là 18 cơ sở, tổng số bệnh nhân điều trị là 3.888 người, số bệnh nhân đạt liều duy trì đạt 95%. Tiến hành triển khai phần mềm quản lý điều trị Methadone toàn thành phố.
4. Văn hóa - Thể thao
* Công tác văn hóa
Tháng 10/2019, thành phố đã chuẩn bị tốt chương trình triển lãm ảnh và tổ chức thành công Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020; hướng dẫn các quận, huyện bổ sung, hoàn thiện hồ sơ đề nghị triển khai thực hiện khảo sát các di tích đề nghị công trợ kinh phí năm 2019 theo Nghị quyết số 22/2017/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố.
Trong 10 tháng đầu năm 2019, thành phố tăng cường chỉ đạo các đơn vị chức năng tổ chức thành công và đa dạng hóa các chương trình biểu diễn nghệ thuật để phục vụ đời sống văn hóa của nhân dân. Bên cạnh đó, đoàn Chèo Hải Phòng tham dự Liên hoan sân khấu Chèo toàn quốc tại Bắc Giang và đạt giải xuất sắc; đoàn Nghệ thuật múa rối Hải Phòng tham dự Tuần lễ sân khấu tại Trung Quốc, Liên hoan Múa rối tại Liên bang Nga và đã vinh dự đạt giải Nhất toàn đoàn cùng 2 Huy chương vàng cá nhân.
* Công tác thể thao
Hoàn thiện Đề án phát triển bóng đá Hải Phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; tổ chức thành công giải đua thuyền Rowing và Canoeing vô địch quốc gia năm 2019.
Tính đến ngày 17/10, Đoàn vận động viên Hải Phòng đã tham gia thi đấu các giải thể thao quốc gia, quốc tế và khu vực, đạt 442 huy chương các loại; cử 02 Huấn luyện viên, vận động viên tham gia tập huấn quốc tế.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 15/9/2019 đến ngày 14/10/2019, toàn thành phố xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 07 người chết và 05 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2018, số vụ tai nạn giao thông giảm 01 vụ, số người chết giảm 02 người và số người bị thương tăng 03 người. Các vụ tai nạn chủ yếu từ va chạm cá nhân, do người dân chưa chấp hành đúng luật, không tuân thủ các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông. 
Cộng dồn từ đầu năm 2019 đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 77 vụ tai nạn giao thông, trong đó đường bộ 76 vụ, đường thủy 01 vụ. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 61 người và bị thương 35 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 02 vụ (tương ứng giảm 2,53%), số người chết giảm 07 người (tương ứng giảm 10,29%) và số người bị thương là tương đương.  
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 15/9/2019 đến ngày 14/10/2019, trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã xảy ra 05 vụ cháy, trong đó có 01 vụ cháy 1,2 ha thảm thực bì rừng ở Thủy Nguyên;  01 vụ cháy lớn tại tòa nhà 4 tầng của Trung tâm Điện máy Hoàng Gia (quận Ngô Quyền, Hải Phòng). Các vụ cháy làm bị thương 01 người và giá trị thiệt hại về tài sản đang chờ xác định. 
Tính chung 10 tháng đầu năm 2019, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 68 vụ cháy, bằng 53,54% so với cùng kỳ, làm 01 người chết, 06 người bị thương và giá trị thiệt hại về tài sản ước tính là 123.630,5 triệu đồng. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục chú trọng tăng cường phối hợp liên ngành để kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại các địa bàn, cơ sở trọng điểm dễ xảy ra cháy nổ; xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy./.

Tác giả bài viết: Cục Thống kê Hải Phòng

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây